TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 168/2020/HSST NGÀY 09/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 169/2020/TLST-HS ngày 26-5-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2020/QĐ-HSST ngày 28-5-2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Huy H, sinh năm 1986 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 275 H, phường V, thành phố N; chỗ ở: Số nhà 10/176 H, phường V, thành phố N; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Huy T và bà Chử Thị L; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22-4-2003, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phúc thẩm phạt 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 08-9-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 12 năm tù về tội “Cướp tài sản”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10 tháng 3 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người làm chứng: Anh Lê Minh Quân và ông Vũ Ngọc Châu (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10-3-2020, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ 88 đường P, phường L, thành phố N phát hiện Vũ Huy H đang điều khiển xe máy biển kiểm soát P9-7291 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Tổ công tác đã phát hiện, thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của H đang mặc có 01 gói nilong màu trắng bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (H khai đó là gói ma túy đá). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng và đưa H cùng người làm chứng về trụ sở Công an thành phố N lập biên bản phạm tội quả tang theo quy định pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của H 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã cũ và chiếc xe máy biển kiểm soát P9-7291.
Bản kết luận giám định số 287/GĐKTHS ngày 12-3-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận vật chứng thu giữ của Vũ Huy H niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng 0,237 gam.
Tại Cơ quan điều tra: Vũ Huy H đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc của gói ma túy trên như sau: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 10-3-2020, H điều khiển xe máy biển kiểm soát P9-7291 một mình từ nhà đến nhà H (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) ở khu vực Đ, phường L, thành phố N thì được H cho 01 gói ma túy đá để sử dụng. H cầm gói ma túy cho vào túi quần phía sau bên phải đang mặc rồi đi xe máy về đến khu vực đầu ngõ 88 đường P, phường L, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.
Bản Cáo trạng số 169/CT-VKSTPNĐ ngày 25-5-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Vũ Huy H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Huy H xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Huy H theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Vũ Huy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Vũ Huy H từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã cũ và chiếc xe máy biển kiểm soát P9-7291 nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Huy H có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10-3-2020, tại khu vực đầu ngõ 88 đường P, phường L, thành phố N bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,237 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là người có nhân thân xấu.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 287/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã cũ và chiếc xe máy biển kiểm soát P9-7291 là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án. [7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Vũ Huy H Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Tuyên bố bị cáo Vũ Huy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Xử phạt bị cáo Vũ Huy H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 10 tháng 3 năm 2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 287/GĐKTHS. Trả lại bị cáo chiếc xe máy biển kiểm soát P9-7291, 01 điện thoại di động Samsung màu đen đã cũ nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 5 năm 2020 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Án phí: Bị cáo Vũ Huy H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Huy H được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án 168/2020/HSST ngày 09/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 168/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về