Bản án 38/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 38/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 23/2021/TL T-HNGĐ ngày 19/01/2021 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXX T- HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐ T-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn 1/5, xã Ph, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

+ Bị đơn: Anh Huỳnh Văn Ph, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn 1/5, xã Ph, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

(Chị Th có mặt, anh Ph vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày: Chị và anh Huỳnh Văn Ph xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống và đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Th, tỉnh Bến Tre vào năm 2005. au khi xây dựng gia đình thì vợ chồng chung sống với nhau tại tỉnh Bến Tre đến năm 2011 thì chuyển đến sinh sống tại xã Phú ơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đến nay. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh đến năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất hòa, cãi nhau thường xuyên và có khi xô xát.

Nguyên nhân là do vợ chồng nảy sinh quá nhiều sự khác biệt, bất đồng về tính cách, quan điểm sống không hòa hợp nên đời sống vợ chồng không hòa thuận, hạnh phúc. Anh Ph thường xuyên uống rượu say và đánh đập vợ, con, không chịu khó làm ăn phát triển kinh tế gia đình. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần cố gắng trao đổi, tìm cách khắc phục nhưng đều không cải thiện được. Nay, chị Th xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kéo dài, tình cảm vợ chồng không cải thiện được, mục đich hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện tại chỉ khiến cả hai mệt mỏi và ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của các con. Do đó chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh Ph được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh Ph có 03 người con chung là Huỳnh Nguyễn Phương Nh, sinh ngày 14/7/2005; Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 20/02/2014 và Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 07/01/2020. Khi ly hôn, chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi cả ba con chung, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th đề nghị tự thỏa thuận về tài sản với anh Ph; đồng thời, quá trình chung sống giữa chị và anh Ph không có nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo đúng quy định của pháp luật đối với anh Huỳnh Văn Ph nhưng anh Phk hông đến Tòa án làm việc cũng như không có văn bản nêu ý kiến liên quan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Th, xử cho chị Th và anh Ph được ly hôn; Về con chung: Đề nghị giao cả ba con chung là Huỳnh Nguyễn Phương Nh, sinh ngày 14/7/2005; Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 20/02/2014 và Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 07/01/2020 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của các con; anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về án phí: Chị Th phải chịu tiền án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn anh Ph đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Do vậy, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt bị đơn anh Ph theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh Ph xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre vào ngày 02/6/2005. Theo chị Thcho rằng, quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, đến nay giữa chị và anh Ph không tự cải thiện được, vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh Ph được ly hôn. Nhận thấy, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Th và anh Ph là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống; anh Ph thường xuyên uống rượu, cờ bạc, có hành vi thiếu tế nhị, thậm chí là xô xát đối với vợ con. Ngoài ra, bản thân anh Ph còn có hành vi đánh người bên ngoài, công an phải can thiệp giải quyết, làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Mặc dù chị Th là người chịu khó chăm lo gia đình, làm ăn phát triển kinh tế, luôn động viên anh Ph khắc phục nhưng anh không thay đổi, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, cũng như nhiều lần triệu tập anh Ph đến làm việc, tham gia phiên họp, hòa giải cũng như tham gia phiên tòa nhưng anh Ph đều vắng mặt và không có ý kiến liên quan, có ý bỏ mặc cho mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng hơn mà không tự tìm cách cải thiện. Do vậy, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện tại cũng không mang lại hạnh phúc cho các bên đương sự. Vì vậy, căn cứ Điều 53 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Th, giải quyết cho chị Th và anh Ph được ly hôn là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị Th xác định, quá trình chung sống chị và anh Ph có 03 con chung là Huỳnh Nguyễn Phương Nh, sinh ngày 14/7/2005; Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 20/02/2014 và Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 07/01/2020. Khi ly hôn, chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi cả ba con chung, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con. Nhận thấy, anh Ph không chịu khó chăm lo gia đình mà thường xuyên uống rượu, cờ bạc và có hành vi đánh vợ, con. Trong khi đó, chị Th là người chịu khó làm ăn, chăm lo cho các con. Hơn nữa, hiện nay cháu Nh và cháu Th đều đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với mẹ; còn cháu Th dưới 36 tháng tuổi cần được sự chăm sóc từ mẹ. Do vậy, để đảm bảo điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ cần giao cả ba con chung cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của các con. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị Th không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th đề nghị tự thỏa thuận về tài sản với anh Ph; đồng thời, quá trình chung sống giữa chị và anh Ph không có nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do anh Ph vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không tiến hành làm việc để làm rõ được. Do vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết trong vụ án này. Trường hợp nếu sau này có tranh chấp thì sẽ được Tòa án xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 203; Điều 227; Điều 228 và Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Th, xử cho chị Nguyễn Thị Th và anh Huỳnh Văn Ph được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cả ba con chung là Huỳnh Nguyễn Phương Nh, sinh ngày 14/7/2005; Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 20/02/2014 và Huỳnh Nguyễn Phương Th, sinh ngày 07/01/2020 cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của các con; anh Huỳnh Văn Ph không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0015048 ngày 18/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị Nguyễn Thị Th đã nộp đủ tiền án phí.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (10/5/2021), nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo; riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử Phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2021/HNGĐ-ST ngày 10/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:38/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;