TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 72/2019/HNST NGÀY 27/11/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành - Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân thụ lý số: 645/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXX-ST ngày 04 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Mỹ D, sinh năm 1978 (Có mặt).
HKTT: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.
* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1979 (Vắng mặt).
HKTT: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/10/2019, bản tự khai, những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Mỹ D trình bày:
Chị D và chị D kết hôn với nhau vào năm 1998, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2001. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014. Đầu năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh S có mối quan hệ nam nữ bất chính bên ngoài. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 6 năm 2014 đến nay. Nay chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị D được ly hôn với anh S.
Về con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Huỳnh Sĩ S, sinh ngày 07/8/2000 và Nguyễn Huỳnh Như Y, sinh ngày 16/11/2012, hiện đang sống với chị D. Sau khi ly hôn, chị D yêu cầu được nuôi con chung là Nguyễn Huỳnh Như Y và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn anh Nguyễn Văn S được Tòa án tống đạt hợp lệ đến lần thứ 2 để dự phiên hòa giải cũng như để dự phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng anh S vẫn vắng mặt không lý do, Tòa án không lấy lời khai được đối với anh S và lập biên bản ghi nhận về việc không tiến hành hòa giải được đối với anh S.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành có quan điểm:
Về người tham gia tố tụng: Tòa án xác định đúng người tham gia tố tụng.
Việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc cấp tống đạt các giấy tờ cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị D với anh S. Sau ly hôn, chị D được quyền nuôi con chung là Nguyễn Huỳnh Như Y sinh ngày 16/11/2012. Ghi nhận việc chị D không yêu cầu anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng. Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn S được Tòa án tống đạt hợp lệ đến lần thứ 2 để dự phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh S là phù hợp với Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh S kết hôn với nhau vào năm 1998 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2001 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo như chị D trình bày, quá trình chung sống vợ chồng chị D anh S sống hạnh phúc đến năm 2014. Đầu năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân theo chị D trình bày do anh S không quan tâm chăm sóc vợ con, có mối quan hệ nam nữ bên ngoài, không lo làm ăn, không lo cho gia đình. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 6 năm 2014 đến nay.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào Biên bản làm việc xác minh ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện C đối với bà Huỳnh Thị Vẹn là mẹ ruột anh S cũng như người dân tại địa phương nơi chị D, anh S sinh sống đã xác nhận vợ chồng chị D anh S đã có xảy ra mâu thuẫn từ khoảng năm 2014, chị D đã về nhà mẹ ruột chị D tại ấp Tiên Tây Vàm, xã B sinh sống từ năm 2014 đến nay. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị D anh S đã thật sự mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung của chị D anh S không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị D là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Huỳnh Sĩ S sinh ngày 07/8/2000 và Nguyễn Huỳnh Như Y sinh ngày 16/11/2012, hiện đang sống với chị D. Sau khi ly hôn, chị D yêu cầu được nuôi con chung là Nguyễn Huỳnh Như Y và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy hiện nay cháu Như Y là con gái cần được sự chăm sóc trực tiếp từ người mẹ. Cháu Như Y có nguyện vọng được sống với mẹ. Để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Như Y cần để cho chị D được nuôi cháu Như Y là phù hợp. Cháu S đã trưởng thành nên không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên ghi nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Các Điều 147, 227, 232, 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Tuyên:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị Huỳnh Thị Mỹ D đối với anh Nguyễn Văn S.
Chị Huỳnh Thị Mỹ D được ly hôn với anh Nguyễn Văn S.
Ghi nhận việc chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng.
2. Về con chung: Sau ly hôn, chị D được nuôi con chung tên Nguyễn Huỳnh Như Y, sinh ngày 16/11/2012. Ghi nhận việc chị D không yêu cầu anh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Cháu Nguyễn Huỳnh Sĩ S, sinh ngày 07/8/2000 đã trưởng thành nên không xem xét.
Anh S được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Tuy nhiên vì quyền và lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
4. Về án phí:
Án phí HNST: Chị D phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng). Số tiền án phí trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà chị D đã nộp theo biên lai thu số 0007144 ngày 14/10/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện C tỉnh Bến Tre. Chị D đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.
5. Chị D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Anh S được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 72/2019/HNST ngày 27/11/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 72/2019/HNST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về