TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 38/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 28 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/HSST ngày 08 tháng 03 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2019/QĐXXST-QĐ ngày 14 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn T, (tên gọi khác: không); Sinh ngày 13 tháng 03 năm 1968; Nơi cư trú: xóm 5, xã DT, huyện D, Nghệ An; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Phạm Văn B và bà Cao Thị Nh (đều đã chết); Vợ: Cao Thị H, sinh năm 1966; có 03 con; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 06/11/2018, bị Công an huyện D xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc” theo Quyết định số 315/QĐ-XPVPHC, nộp phạt vào ngày 20/11/2018. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khởi nơi cư trú từ ngày 28/01/2019.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Trần Văn D, sinh năm 1976 Trú tại: xóm 6, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An (có mặt);
2. Võ Văn Q, sinh năm 1968 Trú tại: Xóm 7, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An (có mặt);
3. Nguyễn Kh, sinh năm 1976 Trú tại: xóm 5, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt);
- Người làm chứng: Võ Công T, sinh năm 1968 Trú tại: xóm 4, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 09 giờ 40 phút ngày 19/01/2019, Phạm Văn T đến nhà ông Nguyễn Kh, sinh năm 1956 tại xóm 5, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An chơi và uống nước chè xanh. Tại đây, Phạm Văn T gặp các ông Nguyễn Kh, Võ Văn Q, Trần Văn D và ngồi uống nước cùng nhau, được một lúc thì cả bốn người rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh bài chắn ăn tiền, quy định sau mỗi ván bài người thua phải đưa cho người thắng năm ngàn đồng. Sau khi thống nhất, các đối tượng lấy bộ bài chắn có sẵn ở nhà ông Kh và một đĩa sứ để làm dụng cụ đánh bạc. Đến khoảng 10 giờ 35 phút cùng ngày thì bị lực lượng công an xã DT kiểm tra, phát hiện và lập biên bản sự việc thu tại chiếu bạc 910.000 đồng, một bộ bài chắn 100 quân và một đĩa sứ. Quá trình điều tra, các đối tượng đã khai nhận về số tiền đánh bạc cụ thể như sau: Phạm Văn T: 100.000 đồng, Trần Văn D: 150.000 đồng, Võ Văn Q: 300.000 đồng và Nguyễn Kh: 360.000 đồng.
Bản cáo trạng số 38/CT-VKS-DC ngày 08 tháng 03 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự; Luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 36 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng/ tháng - Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS 2015; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS 2015: Tịch thu sung quỹ số tiền 910.000 đồng là khoản tiền thu lợi bất chính; Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài chắn 100 quân và 01 chiếc đĩa sứ không có giá trị sử dụng.
- Án phí: bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội thực hiện đúng như cáo trạng quy kết và nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Bị cáo và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì thêm, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án và diễn biến khách quan của vụ án. Đã có đủ cơ sở khẳng định: Từ khoảng 09 giờ 40 phút đến 10 giờ 35 phút ngày 19/01/2019, tại nhà ông Nguyễn Kh (xóm 5, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An) Phạm Văn T cùng các đối tượng Nguyễn Kh, Trần Văn D và Võ Văn Q đã có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền và bị Công an xã DT phát hiện bắt quả tang, thu tại chiếu bạc 910.000 đồng và các phương tiện phạm tội.
Quá trình điều tra đã xác định số tiền sử dụng vào việc đánh bạc cụ thể từng người là: Phạm Văn T: 100.000 đồng, Trần Văn D: 150.000 đồng, Võ Văn Q: 300.000 đồng và Nguyễn Kh: 360.000 đồng. Các đối tượng, Nguyễn Kh, Trần Văn D và Võ Văn Q có số tiền đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên công an huyện D ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định; đối với Nguyễn Kh là chủ nhà đã cho các đối tượng đánh bạc tại nhà mình tại nhà mình, dùng các công cụ có sẵn để làm phương tiện đánh bạc nhưng không thu tiền hồ, bà Hoàng Thị Th (là vợ) không biết việc các đối tượng đánh bạc nên không phạm tội “Gá bạc”.
Đối với bị cáo Phạm Văn T đã từng bị xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền vào ngày 06/11/2018 về hành vi Đánh bạc theo Quyết định số 315/QĐ-XPVPHC của Công an huyện D, tỉnh Nghệ An nên hành vi lần này của bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn chính xác.
[3]. Đánh giá tính chất vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng; hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự và an toàn công cộng, gây dư luận xấu trong nhân dân, đồng thời là điều kiện, nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, nên cần xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm.
[4]. Về vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo thực hiện hành vi một cách bột phát, giữa bị cáo và các đối tượng khác không có sự bàn bạc chuẩn bị trước, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc ít, nhưng do bị cáo đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc chưa được xóa việc xử phạt hành chính nên được xác định là tình tiết định tội đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bố đẻ của bị cáo ông Phạm Văn B là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba; xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại các điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ phần nào mức hình phạt cho bị cáo và không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội mà chỉ cần áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ cũng đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cần khấu trừ thu nhập của bị cáo để sung quỹ nhà nước.
[5]. Xử lý vật chứng: Cần tịch thu sung quỹ nhà nước toàn bộ số tiền 910.000 đồng (Chín trăm mười ngàn đồng) là khoản tiền đến hành vi phạm tội. Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài chắn 100 quân và 01 chiếc đĩa sứ không có giá trị sử dụng.
[6]. Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 36 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành bản án và bản sao bản án.
Khấu trừ thu nhập của bị cáo Phạm Văn T 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) mỗi tháng để sung quỹ nhà nước tương ứng với thời gian cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Phạm Văn T cho Ủy ban nhân dân xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục.
- Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu sung quỹ nhà nước toàn bộ số tiền 910.000 đồng (Chín trăm mười ngàn đồng) là khoản tiền liên quan đến hành vi phạm tội hiện đang lưu gửi tại Kho bạc Nhà nước D theo phiếu nhập kho ngày 29/01/2019.
Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài chắn 100 quân và 01 chiếc đĩa sứ không có giá trị sử dụng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo phiếu nhập kho số 48 ngày 11/03/2019.
- Về án phí: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đươc bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 38/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 38/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về