Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 10/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 38/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 10 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 148/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXX-ST ngày 31 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32 ngày 14/6/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X , sinh năm 1988 HKTT: Số …, PV, Phường PS, thành phố TH, tỉnh TH Nơi ở hiện tại: Thôn KM, xã HĐ, huyện HT, tỉnh TH

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc Đ, sinh năm 1980 HKTT và nơi ở: Số …, PV, Phường PS, thành phố TH, tỉnh TH

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/3/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, chị Nguyễn Thị X trình bày:

Chị và anh Nguyễn Quốc Đ tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/02/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian ngắn thì thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đại không chịu khó làm ăn, không quan tâm đến gia đình, thường xuyên say rượu chửi bới đánh đập chị. Sau đó anh Đại bỏ đi Miền Nam làm ăn nên chị đem con về nhà mẹ đẻ chị sinh sống. Tháng 5/2013 anh Đại trở về thành phố Thanh Hóa sinh sống nhưng không hề liên lạc thông báo hay thăm hỏi gì đến chị và con (khi đó đang ở nhà mẹ đẻ chị ở huyện HT). Do đó vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm đến nhau, chấm dứt mọi liên hệ cả về tình cảm và kinh tế. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị tha thiết đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị ly hôn anh Nguyễn Quốc Đ .

Về con chung: Chị và anh Đ có 01 con chung là Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày 12/5/2011 lâu nay con đang ở với chị. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị vì lâu nay anh Đ không chu cấp gì cho con chị vẫn nuôi dưỡng con khỏe mạnh; Về tài sản chung và nợ chung: Chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Quốc Đ, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Đ nhưng anh Đ thường xuyên vắng nhà, không rõ thời điểm trở về nên Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho anh Đ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên anh Đ không đến Tòa án để làm bản tự khai và không có bất cứ ý kiến, văn bản gì gửi cho Tòa án.

Tại bản tự khai ngày 10/5/2019 tại Tòa án, cháu Nguyễn Thị Hà M xin được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

Kết quả xác minh của Tòa án tại gia đình anh Đ và tại địa phương phường PS, TP. TH xác định: Hiện tại anh Đ có mặt ở địa phương nhưng lẩn tránh việc nhận văn bản của Tòa án. Về quan hệ hôn nhân giữa chị X anh Đ, gia đình và địa phương cho biết: Sau khi kết hôn anh chị chung sống tại phố PT 2, phường PS, TP. TH. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn, anh Đ thường xuyên uống rượu say rồi chửi bới đánh đập vợ con. Từ năm 2012 đến nay chị X và anh Đ không chung sống với nhau, chị X đã mang con về nhà mẹ đẻ sinh sống. Anh Đ không có công việc ổn định, thường xuyên lang thang. Nay chị X xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết cho chị X ly hôn.

Tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 27/5/2019, anh Đ không có mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Chị X giữ nguyên quan điểm như đơn khởi kiện và đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa.

Tại phiên tòa ngày 14/6/2019, chị X có mặt, anh Đ vắng mặt lần thứ nhất không có lý do, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa đồng thời ấn định thời gian mở phiên tòa lần thứ 2 vào 10/7/2019. Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập đến phiên tòa ngày 10/7/2019 đã tống đạt hợp lệ cho anh Nguyễn Quốc Đ Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Quốc Đ vắng mặt; Chị X giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh Đ và xin trực tiếp nuôi con chung Hà M không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện VKS: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và HĐXX, việc chấp hành pháp luật của chị X kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân thủ đúng quy định, anh Đ chưa chấp hành đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn, anh Nguyễn Quốc Đ đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đến phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh Đ vắng mặt lần thứ 2, HĐXX căn cứ Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt anh Nguyễn Quốc Đ .

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Quốc Đ tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Phú Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/02/2010 như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Đ không quan tâm chăm lo đời sống gia đình, không có trách nhiệm với vợ con, chửi bới đánh đập vợ con. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay. Nay chị X xác định vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên kiên quyết xin được ly hôn anh Đ ; Về phía anh Đ, không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến hoặc văn bản gì gửi cho Tòa án. Tuy nhiên quá trình xác minh tại gia đình và địa phương cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị X, anh Đ đã thực sự trầm trọng, chị X kiên quyết xin ly hôn. Yêu cầu ly hôn của chị X là có cơ sở. HĐXX căn cứ vào Điều 56 Luật HNGĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị X

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Quốc Đ có 01 con chung là Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày 12/5/2011, từ khi vợ chồng ly thân chị X là người trực tiếp nuôi dưỡng con. Nay chị X có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng của chị X là hoàn toàn tự nguyện, chính đáng, không trái quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của con, HĐXX giao Nguyễn Thị Hà M cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị X là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 6; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sựKhoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị X ly hôn anh Nguyễn Quốc Đ .

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hà M, sinh ngày 12/5/2011 là con chung của anh Đ và chị X cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Quốc Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị X .

Anh Nguyễn Quốc Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị X, anh Nguyễn Quốc Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0006996 ngày 11/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Chị X đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Quốc Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hịên theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2019/HNGĐ-ST ngày 10/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:38/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;