TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 38/2018/HSST NGÀY 23/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã P, huyện L, Toà án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
- Đinh Văn A, sinh ngày 10/7/1987 tại L, Quảng Bình; NĐKNKTT: Thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn 2/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Đinh Văn Th (chết), con bà: Phan Thị L, sinh năm 1959; Vợ: Lê Thị H, sinh năm 1998; Con: 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh tháng 8/2018.
Tiền sự, tiền án: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2018, có mặt tại phiên toà theo Lệnh trích xuất của Toà án.
- Lê Thị H, tên gọi khác: B, sinh ngày 25/7/1998 tại L, Quảng Bình; NĐKNKTT: Thôn T, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: Không nghề;
Trình độ học vấn 6/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lê Văn H, sinh năm 1972, con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1976; Chồng: Đinh Văn A, sinh năm 1987; Con: 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh tháng 8/2018.
Tiền sự, tiền án: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
Bị hại:
- Anh Võ Đăng H, sinh năm 1994
Trú tại: Đội 2, thôn L, xã A, huyện L, Quảng Bình. Vắng mặt.
- Anh Đặng Thành T, sinh năm 1982
Trú tại: Đội 3, thôn T, xã L, huyện L, Quảng Bình. Vắng mặt.
- Anh Đặng Hữu B, sinh năm 1974
Trú tại: Tổ dân phố P, thị trấn K, huyện L, Quảng Bình. Vắng mặt.
- Anh Lê Đình T, sinh năm 1982
Trú tại: Khóm 11, thị trấn B, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Võ Đăng K, sinh năm 1990
Trú tại: Đội 2, thôn L, xã A, huyện L, Quảng Bình. Vắng mặt.
- Anh Phạm Xuân Đ, tên gọi khác: K, sinh năm 1981
Trú tại: Thôn 2 T, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
- Anh Đỗ Trung H, sinh năm 1982
Trú tại: Tổ dân phố X, thị trấn K, huyện L, Quảng Bình. Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1988
Trú tại: Tổ dân phố X, thị trấn K, huyện L, Quảng Bình. Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1976
Trú tại: Đội 1 T, xã A, huyện L, Quảng Bình. Có mặt.
Người làm chứng: Anh Võ Trọng Q, tên gọi khác: Bia, sinh năm 1995
Trú tại: Thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 20/8/2014, Đinh Văn A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 51Z6 – 8954 chở theo Lê Thị H đi từ Thôn T, xã A lên Thôn T, xã P, huyện L, Quảng Bình. Khi đi qua quán Bi a của anh Mai Xuân N ở thôn L, xã A, huyện L Đinh Văn A phát hiện xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – SIRIUS BKS 73H1 – 102.39 của anh Võ Đăng H, sinh năm 1994 ở L, xã A dựng trước quán, An rủ H lấy trộm, H đồng ý. An dừng xe và bảo H đứng đợi còn A đi bộ đến dắt xe mô tô đưa đến chỗ H đang đứng, sau đó A bảo H ngồi lên xe vừa lấy trộm cầm lái, A điều khiển xe mô tô của mình dùng chân đẩy xe của H đi được một đoạn thì bị anh Võ Đăng H phát hiện đuổi theo và giữ H cùng xe mô tô, A điều khiển xe mô tô của mình bỏ chạy.
Ngày 21/8/2014 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy tiến hành định giá và kết luận: Xe mô tô BKS 73H1 – 102.39 có trị giá 12.500.000 đồng.
Ngoài vụ trộm trên, An cùng với Võ Trọng Q, trú tại T, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ ngày 20/6/2014, Đinh Văn A cùng Võ Trọng Q rủ nhau đi trộm cắp tài sản, khi đến khu vực Trung tâm văn hóa huyện L thấy 01 máy ép nước mía của anh Đặng Hữu B, ở Tổ dân phố P, Thị trấn K đang để tại Nhà văn hóa trung tâm huyện L, A trực tiếp vào lấy trộm rồi cả hai cùng đưa đến bán cho anh Đỗ Trung H ở Tổ dân phố X, Thị trấn K với giá 2.000.000 đồng.
Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 06/8/2014, Đinh Văn A trên đường đến nhà Võ Trọng Q chơi thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – JUPITER MX màu đỏ - đen BKS 73H1 – 100.76 của anh Lê Đình T ở Thị trấn B, huyện V, tỉnh Quảng Trị đang dựng ở trước cổng nhà của ông Nguyễn Mạnh T ở T, xã P, A trực tiếp vào lấy trộm rồi gọi điện thoại cho Võ Trọng Q đưa chiếc xe vừa trộm cắp được đến bán cho chị Nguyễn Thị T ở Tổ dân phố P, Thị trấn K với giá 4.000.000 đồng.
Vụ thứ ba: Khoảng 12 giờ ngày 16/8/2014, Đinh Văn A cùng Võ Trọng Q rủ nhau đi trộm cắp tài sản. A và Q đi xe mô tô BKS 73H1 – 6387 đến gần khu vực Trường trung học phổ thông kỹ thuật L, lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – JUPITER MX màu đen – bạc BKS 73H1 – 062.78 của anh Đặng Thành T ở thôn T, xã L, huyện L dựng ở ngoài đường, A trực tiếp lấy trộm rồi cùng Q đem bán cho anh Phạm Xuân Đ, tên gọi khác: Khốt ở thôn 2 T, xã T với giá 4.000.000 đồng.
Ngày 18/9/2014 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy tiến hành định giá và kết luận: Xe mô tô BKS73H1 – 062.78 có giá trị 17.220.000 đồng.
Ngày 19/9/2014 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy tiến hành định giá và kết luận: Xe mô tô BKS73H1 – 100.76 có giá trị 21.200.000 đồng.
Ngày 23/9/2014, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy tiến hành định giá và kết luận: 01 máy ép nước mía có giá trị 8.400.000 đồng.
Võ Trọng Q cùng với Đinh Văn A tham gia 03 vụ trộm cắp tài sản vào các ngày 20/6/2014, 06/8/2014 và 16/8/2014 của anh Đặng Hữu B, Lê Đình T và Đặng Thành T. Hành vi của Võ Trọng Q cùng với phần dân sự và vật chứng của vụ án đã được đưa ra xét xử và giải quyết tại Bản án số 04/2015/HSST ngày 29/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
Về vật chứng: Ngày 20/8/2014, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lệ Thủy đã tạm giữ xe mô tô BKS 73H1 – 102.39; xe mô tô BKS 51Z6 – 8954; 01 áo phong; 01 mũ lưỡi trai; 01 mủ bảo hiểm (Tất cả có đặc điểm như mô tả tại biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu ngày 20/8/2014). Ngày 22/8/2014, Cơ quan điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã trả lại xe mô tô BKS 73H1- 102.39 cho anh Võ Đăng H.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Võ Đăng Học đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.
Bản Cáo trạng số: 33/THQCT-KSĐT-CT ngày 05/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thuỷ truy tố bị cáo Đinh Văn A và Lê Thị H tội trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm p, h khoản 1 Điều 46; các Điều 68, 69, 71 và 73 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Lê Thị H từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ và không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Lê Thị H; Áp dụng khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Đinh Văn A từ 24 đến 30 tháng tù.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe mô tô nhãn hiệu Wave BKS 51Z6 – 8954 cho chị Nguyễn Thị T. Đối với 01 áo phong đã cũ nhãn hiệu polo club, 01 mũ lưỡi trai màu đen nhãn hiệu Buster đã qua sử dụng, 01 mủ bảo hiểm nhãn hiệu indees màu hồng đã qua sử dụng, không còn giá trị sử dụng, bị cáo A không yêu cầu giải quyết nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Lời nói sau cùng của các bị cáo:
Bị cáo A: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, quá trình tạm giữ, tạm giam bị cáo ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về làm ăn nuôi vợ con và bị cáo xin hứa không tái phạm.
Bị cáo H: Bị cáo ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ để làm ăn nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà các bị cáo Đinh Văn A, Lê Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và tang vật vụ án đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa.
[2] Về hành vi, quyết định của Cơ quan Điều tra, Cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có khiếu nại gì;
[3] Có đủ cơ sở kết luận: Trong thời gian từ ngày 20/6/2014 đến 20/8/2014, bị cáo Đinh Văn A đã cùng với Lê Thị H, Võ Trọng Q lợi dụng sơ hở của người khác đã có hành vi lén lút thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của các bị hại Đặng Hữu B, Lê Đình T, Đặng Thành T và Võ Đăng H, gây thiệt hại tổng trị giá 59.320.000; bị cáo Lê Thị H đã cùng với Đinh Văn A trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Đăng H, gây thiệt hại trị giá 12.500.000 đồng. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đinh Văn A phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999; bị cáo Lê Thị H phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thuỷ và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[4] Võ Trọng Quang cùng với Đinh Văn A tham gia 03 vụ trộm cắp tài sản vào các ngày 20/6/2014, 06/8/2014 và 16/8/2014 của anh Đặng Hữu B, Lê Đình T và Đặng Thành T. Hành vi của Võ Trọng Q đã được đưa ra xét xử tại Bản án số 04/2015/HSST ngày 29/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Lê Thị H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm p, h khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.
[6] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy bị cáo Lê Thị H cùng với Đinh Văn A thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản của người khác nhưng không có bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy, cần có mức án tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Trước khi phạm tội bị cáo H có nhân thân tốt, khi phạm tội bị cáo đang tuổi vị thành niên, hiện nay bị cáo cư trú tại thôn T, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình và đang nuôi con 03 tháng tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo H ra khõi đời sống xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục thể hiện chính sách nhân đạo và khoan hồng của pháp luật. Bị cáo Đinh Văn A đã cùng với Lê Thị H, Võ Trọng Q thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của người khác nhưng không có bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 02 tháng, bị cáo thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của người khác, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang, lo lắng và bất bình đối với nhân dân địa phương. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra mới có tác dụng giáo dục bị cáo, Hội đồng xét xử nhất trí cách ly bị cáo ra khõi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và sẽ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong khung hình phạt bị cáo bị truy tố như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa nhằm thể hiện chính sách nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Đăng H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. Bị hại Đặng Hữu B, Lê Đình T và Đặng Thành T phần trách nhiệm dân sự đã được giải quyết tại Bản án số 04/2015/HSST ngày 29/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về vật chứng: Xe mô tô nhãn hiệu Wave BKS 51Z6 – 8954 thuộc quyền quản lý hợp pháp của chị Nguyễn Thị T, chị T cho Đinh Văn A và Lê Thị H mượn sử dụng nhưng không biết A và H dùng làm phương tiện trộm cắp tài sản nên cần trả lại cho chị T. Đối với 01 áo phong đã cũ nhãn hiệu polo club, 01 mũ lưỡi trai màu đen nhãn hiệu Buster đã qua sử dụng, 01 mủ bảo hiểm nhãn hiệu indees màu hồng đã qua sử dụng, tất cả không có giá trị sử dụng và các bị cáo không yêu cầu giải quyết nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Các vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/112018 giữa Công an huyện Lệ Thuỷ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình.
Vật chứng của vụ án Đinh Văn A trộm cắp cùng Võ Trọng Q đã được giải quyết tại Bản án số 04/2015/HSST ngày 29/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Các bị cáo Đinh Văn A, Lê Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, tuyên bố các bị cáo Đinh Văn A, Lê Thị H phạm tội trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm p, h khoản 1 Điều 46; các Điều, 68, 69, 71 và 73 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Lê Thị H 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Lê Thị H cho Uỷ ban nhân dân xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục và không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Lê Thị H.
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Đinh Văn A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (28/8/2018). Tiếp tục tạm giam bị cáo Đinh Văn A với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.
2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tuyên xử: Trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave BKS 51Z6 – 8954 cho chị Nguyễn Thị T. Đối với 01 áo phong đã cũ nhãn hiệu polo club, 01 mũ lưỡi trai màu đen nhãn hiệu Buster đã qua sử dụng, 01 mủ bảo hiểm nhãn hiệu indees màu hồng đã qua sử dụng, tất cả không có giá trị sử dụng và các bị cáo không yêu cầu giải quyết tịch thu tiêu huỷ.
3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án, xử buộc bị cáo Đinh Văn A, Lê Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (23/11/2018); đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi cư trú để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án 38/2018/HSST ngày 23/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 38/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về