Bản án 38/2017/DSST ngày 30/08/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 38/2017/DSST NGÀY 30/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ HỤI

Ngày 30 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 211/2016/TLST-DS, ngày 21 tháng 12 năm 2016 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2017/QĐST-DS, ngày 11/7/2017 và quyết định hoãn phiên tòa số: 55/2017/QĐST-DS, ngày 01/8/2017 và Thông báo mở lại phiên tòa số: 211/TB-TA ngày 23/8/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Lê Thị P, sinh năm: 1970; (có mặt) Địa chỉ: số 568B, ấp A, xã D, V, Đồng Tháp.

- Bị đơn: Nguyễn Thị G (Cọp), sinh năm: 1963; (vắng mặt) Địa chỉ: số 358, ấp A, xã D, V, Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Bà Lê Thị C, sinh năm: 1972; (vắng mặt)

Địa chỉ: số 567A, ấp A, D, huyện V, Đồng Tháp.

2. Bà Trần Thị M, sinh năm: 1968; (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã D, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

3. Bà Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm: 1960; (vắng mặt) Địa chỉ: số 578, ấp A, xã D, huyện V, Đồng Tháp.

4. Chị Lê Thị C, sinh năm: 1982; (vắng mặt)

Đăng ký HKTT: ấp A, xã D, huyện V, Đồng Tháp. Tạm trú: ấp A, xã D, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

5. Bà Nguyễn Thị K, sinh năm: 1950; (vắng mặt) Địa chỉ: 586, ấp A, xã D, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Lê Thị P trình bày: Bà P có làm chủ hụi 1.000.000 đồng gồm 14 hụi viên, hụi khui ngày 28/8/2015 mỗi tháng khui một lần, bà G tham gia 01phần và hốt lần thứ nhất (bỏ 350.000 đồng), sau khi hốt hụi bà G đóng hụi chếtcho bà P được 07 lần, còn lại 06 lần chưa đóng là 6.000.000 đồng, hụi mãn ngày 17/10/2016.

Hụi 500.000 đồng gồm 21 hụi viên khui ngày 30/10/2014, mỗi tháng khui một lần, bà G tham gia hai phần và bà G hốt lần thứ tư và lần thứ 5, sau khi hốt bà G đóng hụi chết cho bà P chỉ còn 04 lần của hai phần là 4.000.000 đồng hụi mãn ngày 10/7/2016, sau khi bà G không đóng hụi chết cho bà P thì bà P đã choàng hụi cho bà G đến khi mãn hụi. Nay bà P yêu cầu bà G trả lại cho bà P 10.000.000 đồng tiền hụi của hai dây hụi không tính lãi.

Chứng cứ bà P đưa ra là các biên bản hòa giải ngày 25/8/2016; 29/10/2016; 15/11/2016 của Tổ hòa giải ấp A xã D huyện V. Cụ thể là biên bản hòa giải ngày 25/8/2016 bà G có thừa nhận có tham gia dây hụi 500.000đ, bà G tham gia 02 phần và đã hốt, và dây hụi 1.000.000đ bà G tham gia 01 phần, tất cả các phần hụi bà G tham gia và đã hốt hết, 02 phần hụi 500.000đ bà G đã hốt và đóng hụi chết xong, hụi 1.000.000đ bà G đã hốt và đóng hụi chết còn lại 04 lần chưa đóng.

Trong quá trình thu thập chứng cứ bị đơn Nguyễn Thị G(Cọp) trình bày bà G có tham gia dây hụi 1.000.000đồng do bà P làm chủ hụi khui ngày 28/8/2015 gồm 14 hụi viên bà G tham gia 01 phần và hốt lần thứ nhất (G bỏ 350.000 đồng) sau khi hốt hụi bà G đóng hụi chết lại cho bà P đến lần thứ 10, hiện bà G chỉ còn nợ lại 03 lần hụi chết chưa đóng là 3.000.000đ.

Dây hụi 500.000 đồng khui ngày 30/10/2014 gồm có 21 hụi viên, bà G chỉ tham gia 01 phần và hốt lần thứ nhất, sau khi hốt hụi bà G đã đóng hụi chết cho bà P xong, việc bà P cho rằng bà G tham gia 02 phần là không đúng. Nay bà G không đồng ý trả cho bà P 10.000.000 đồng mà chỉ đồng ý trả 3.000.000 đồng.

Ngày 06/3/2017 Tòa án đã ra công văn số 44/CV yêu cầu đương sự Pcung cấp chứng cứ về việc bà G tham gia 02 phần hụi 500.000 đồng như bà P trình bày, sau khi nhận văn bản của Tòa bà P có yêu cầu Tòa thu thập chứng cứ đối với những hụi viên cùng tham gia dây hụi 500.000 đồng.

Đồng thời ngày 06/3/2017 Tòa án cũng ra công văn số 45/CV(đã tống đạt hợp lệ cho bà G) yêu cầu bà G cung cấp chứng cứ về việc đã đóng 10 lần hụi chết của dây hụi 1.000.000 đồng và dây hụi 500.000 đồng bà G tham gia 01 phần và đã đóng hụi chết xong. Đã hết thời gian quy định trong công văn mà bà G không cung cấp chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình.

Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ lấy lời khai người làm chứng mà bà P yêu cầu: gồm bà Lê Thị C, bà Lê Thị C, bà Trần Thị M, bà Nguyễn Thị K (Két), bà Nguyễn Thị Cẩm H.

Bà Lê Thị C trình bày: P là dì của Cưỡng, Cưỡng có tham gia dây hụi 500.000đ khui ngày 30/10/2014 do P làm chủ, gồm có 21 hụi viên nhưng Cưỡng không nhớ hết tên hụi viên. Dây hụi này bà G tham gia 02 phần, bà Cọp hốt lần thứ mấy và đóng hụi chết lại bao nhiêu Cưỡng không biết hiện nay hụi đã mãn.

Bà Lê Thị C trình bày: Bà Chiều làm em ruột của bà P, bà Chiều có tham gia dây hụi 500.000đ do bà P làm chủ, hụi khui ngày 30/10/2014 gồm có 21 hụi viên, trong dây hụi này bà G (Cọp) tham gia 02 phần và đã hốt hết 02 phần ở lần khui thứ tư và thứ năm.

Bà Trần Thị M trình bày: Mót và P không có quan hệ bà con gì chỉ là hàng xóm bà Mót có tham gia 01 phần của dây hụi 500.000đ khui ngày 30/10/2014 do bà P làm chủ, hụi gồm 21 hụi viên, trong dây hụi này bà G (Cọp) tham gia 02 phần và bà G đã hốt ở lần khui thứ 4 và thứ 5, sau khi hốt hụi G đóng hụi chết lại cho P bao nhiêu Mót không biết.

Bà Nguyễn Thị K (Két) trình bày: bà Kết chỉ là hàng xóm của P, bà Kết có tham gia dây hụi 500.000đ gồm 21 hụi viên do bà P làm chủ, hụi khui ngày 30/10/2014, Kết không nhớ hết tên các hụi viên, trong dây hụi này G(Cọp) tham gia 02 phần bà G hốt ở lần khui thứ mấy thì Kết không biết và bà G sau khi hốt hụi đóng lại bao nhiêu Kết cũng không biết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, lời trình bày của đương sự đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ pháp luật: Bà Lê Thị P khởi kiện đòi nợ hụi đối với bà Nguyễn Thị G nên xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “tranh chấp hợp đồng dân sự hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị G mặt dù được Tòa án tiệu tập hợp lệ xét xử lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa, Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

 [3] Về nội dung: Đối với phần hụi 1.000.000đ gồm 14 hụi viên, hụi khui ngày 28/8/2015 mỗi tháng khui một lần bà G tham gia 01 phần và hốt lần thứ nhất sau khi hốt hụi bà G đóng hụi chết còn nợ lại 06 lần hụi chết bằng 6.000.000đ bà P đã đóng thay, nên bà P yêu cầu bà G trả lại cho bà P 6.000.000đ tiền hụi mà P đã đóng thay, đối với phần hụi này bà G cũng thừa nhận là có tham gia 01 phần và hốt lần thứ nhất như bà P trình bày là đúng, nhưng bà G trình bày sau khi hốt hụi đã đóng hụi chết cho bà P chỉ còn lại 03 lần chưa đóng là 3.000.000đ chứ không phải 06 lần là 6.000.000đ như bà P trình bày. Nay bà G chỉ đồng ý trả lại bà P 3.000.000đ của 03 lần hụi chết, không đồng ý trả 6.000.000đ như P yêu cầu. Xét yêu cầu đòi nợ hụi của bà P đối với bà G (Cọp) Hội đồng xét xử xét thấy: Việc bà G có tham gia 01 phần hụi 01 triệu đồng do bà P làm chủ gồm 14 hụi viên, hụi khui ngày 28/8/2015 và bà G hốt lần thứ nhất là có thật được chứng minh qua lời trình bày của đương sự nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay và thừa nhận của bị đơn trong quá trình tòa thu thập chứng cứ. Bà P cho rằng sau khi hốt hụi bà G đóng hụi chết còn nợ lại 06 lần chưa đóng là 06 triệu đồng P đã đóng thay G nên yêu cầu bà G trả lại cho bà P, bà G cho rằng chỉ còn nợ lại bà P 03 lần hụi chết của phần hụi này, Tòa án đã ra văn bản yêu cầu bà G cung cấp chứng cứ, chứng minh cho lời trình bày của mình nhưng đã hết thời hạn quy định bà G không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nên việc bà P trình bày bà G còn nợ lại 06 lần hụi chết là 06 triệu đồng và yêu cầu bà G trả lại là có căn cứ hội đồng xét xử chấp nhận.

Hụi 500.000 đồng gồm 21 hụi viên khui ngày 30/10/2014, mỗi tháng khui một lần, bà G tham gia hai phần và bà G hốt lần thứ tư và lần thứ 5, sau khi hốt bà G đóng hụi chết cho bà P chỉ còn 04 lần của hai phần là 4.000.000 đồng hụi mãn ngày 10/7/2016, sau khi bà G không đóng hụi chết cho bà P thì bà P đã choàng hụi cho bà G đến khi mãn hụi. Bà P yêu cầu bà G trả lại cho bà P 4.000.000 đồng tiền hụi chết của hai phần hụi 500.000đ không tính lãi. Bà G thừa nhận có tham gia phần hụi 500.000đ gồm 21 hụi viên khui ngày 30/10/2014, mỗi tháng khui một lần, bà G tham gia 01 phần và hốt lần thứ nhất, sau khi hốt bà G đóng hụi chết cho bà P đến khi mãn hụi nên bà G không đồng ý theo yêu cầu của bà P. Xét yêu cầu của các đương sự Hội đồng xét xử xét thấy: Việc bà G có tham gia dây hụi 500.000 đồng do bà P làm chủ gồm 21 hụi viên, hụi khui ngày 30/4/2014 bà G cho rằng tham gia một phần và đã hốt lần thứ nhất và đã đóng hụi chết xong tới mãn hụi, bà P cho rằng bà G tham gia 02 phần và hốt lần thứ lần thứ tư và thứ năm, sau khi hốt đóng hụi chết còn lại mỗi phần là 04 lần hụi chết, tổng cộng của hai phần hụi là 08 lần số tiền 4.000.000đ. Tòa ánđã ra văn bản yêu cầu bà P cung cấp chứng cứ về việc bà G có tham gia 02 phần hụi trong dậy hụi 500.000đ như P trình bày bà P có yêu cầu lấy lời khai các hụi viên. Những hụi viên mà bà P yêu cầu thu thập chứng cứ gồm Lê Thị C, Lê Thị C, Trần Thị M, Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị Cẩm H cùng trình bày bà G có tham gia dây hụi 500.000đ do P làm chủ và bà G tham gia 02 phần, nhưng những hụi viên này không biết bà G đã hốt chưa, Bà G chỉ thừa nhận tham gia một phần và đã đóng xong hụi chết, bà P đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình biên bản hòa giải ngày 25/8/2016 của Tổ hòa giải ấp A, xã D huyện V, tỉnh Đồng Tháp bà G có thừa nhận có tham gia dây hụi 500.000đ, G tham gia 02 phần và đã hốt, và dây hụi 1.000.000đ G tham gia 01 phần, tất cả các phần hụi G tham gia và đã hốt hết, 02 phần hụi 500.000đ G đã hốt và đóng hụi chết xong, hụi 1.000.000đ G đã hốt và đóng hụi chết còn lại 04 lần chưa đóng, nên việc bà P cho rằng dây hụi 500.000đ gồm 21 hụi viên khui ngày 30/10/2014 bà G tham gia 02 phần và còn lại 08 lần hụi chết của hai phần hụi chưa đóng số tiền 4.000.000đ là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu.

Do bà G bị buộc thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm dân sự.

Bà P được chấp nhận toàn bộ yêu cầu nên phải nộp án phí và được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005; Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu đòi nợ hụi của bà Lê Thị P đối với bà Nguyễn Thị G.

Buộc bà Nguyễn Thị G có nghĩa vụ trả lại cho bà Lê Thị P 10.000.000đ (mười triệu đồng) tiền nợ hụi.

Kể từ ngày bà P có đơn yêu cầu thi hành án mà bà G chưa trả số tiền trên cho bà P thì số tiền trên được tính lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với từng thời gian chậm thi hành án.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị G có nghĩa vụ nộp 500.000đ án phí sơ thẩm dân sự.

Bà Lê Thị P được nhận lại 250.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp ngày 21/12/2016 theo biên lai số 08906 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V.

Án xử có mặt nguyên đơn, báo cho nguyên đơn biết là có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/8/2017). Đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án,quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2017/DSST ngày 30/08/2017 về tranh chấp hợp đồng dân sự hụi

Số hiệu:38/2017/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;