Bản án 378/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 378/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A. Tòa án nhân dân huyện A, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 255/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 về việc“Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 394/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm: 1970

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1969

Cùng cư trú: số 22, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Quỹ tín dụng nhân dân A, huyện A

Đi diện theo pháp luật là ông Phan Ngọc M, chức vụ: Giám đốc.

Địa chỉ: 137, đường Nguyễn Hữu C, thị trấn A, huyện A, tỉnh An Giang

La Thị Bé H, sinh năm: 1971 Cư trú: ấp V, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.

Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt. Riêng ông X có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 25/6/2019 với các tài liệu kèm theo, quá trình tố tụng tại Tòa án ông Nguyễn Văn X trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà T đã lớn tuổi về chung sống với nhau để an hưởng tuổi già, cả hai không làm đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại UBND xã P ngày 22/8/2007, sau đó chung sống tại ấp P, xã P. Đôi lúc có cự cải nhưng cũng được xem là hạnh phúc đến khoảng tháng 5/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, bà T đột nhiên bỏ nhà đi và không đồng ý tiếp tục chung sống với ông. Trong suốt quá trình chung sống khoảng 10 năm nhiều lần bà T đã bỏ đi như vậy, mỗi lần khoảng 1- 2 tháng thì tự hàn gắn ông rước về nhưng lần này ông liên hệ thì bà từ chối và kiên quyết không chịu chung sống với ông, nhiều lần yêu cầu ông ly hôn với bà.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng có cố gắng cũng không còn hạnh phúc, nên ông quyết định ly hôn với bà T.

Về quan hệ con chung, tài sản chung: Ông bà không có con chung và tài sản chung.

Về quan hệ nợ chung: Ông và bà T có vay của Quỹ tín dụng nhân dân A – Phòng giao dịch Q số tiền 140.000.000 đồng bằng hai hợp đồng tín dụng ngày 06/3 và ngày 17/5/2019; ông có cố đất cho bà La Thị Bé H số tiền 60.000.000 đồng, ông tự nguyện thanh toán và không yêu cầu bà T cùng liên đới.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử:

Đối với bà Nguyễn Thị T, bà La Thị Bé H được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các ông bà vẫn vắng mặt không lý do, bà T và bà Bé H không gởi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án. Tòa án đã đến tận nhà bà T đã ghi lời khai nhưng bà T cũng không có mặt nên tiến hành lập biên bản về việc không làm việc được với đương sự vào ngày 23/7/2019.

Ngày 17/7/2019 Quỹ tín dụng gởi văn bản trình bày ý kiến như sau: Thống nhất giữa Quỹ tín dụng nhân dân A – Phòng giao dịch Q có ký kết hợp đồng tín dụng số 0243/2019/HGGTD ngày 17/5/2019 có thế chấp quyền sử dụng đất gắn liền với căn nhà mang tên ông X – bà T số tiền 140.000.000 đồng. Nay Quỹ tín dụng đồng ý cho ông X – bà T tiếp tục thực hiện hợp đồng và không có yêu cầu độc lập.

Chứng cứ thu thập được:

Bà Đặng Thị T – Phó ấp P trình bày: Ông X và bà T đã lớn tuổi mới về chung sống với nhau, cả hai đều có con riêng đã lớn, có gia đình riêng. Ông bà sống với nhau được xem là hạnh phúc nhưng khoảng 01 năm trở lại đây bà T thường xuyên đi lên con riêng ở thành phố 5 – 10 ngày lại về, vợ chồng có xảy ra tranh cãi, tình cảm vợ chồng không được như xưa. Đến khoảng tháng 5/2019 bà T đi lên con gái đến nay không thấy về nên ông X không đồng ý chung sống và xin ly hôn.

Tại phiên tòa hôm nay mặc dù đã được tống đạt hợp lệ lần hai nhưng tất cả các đương sự trong vụ án đều vắng mặt, riêng ông X đơn xin vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông bà theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ, xác định tư cách của những người tham gia tố tụng là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử được đảm bảo. Về nội dung giải quyết vụ án, xét thấy yêu cầu ly hôn của ông X là có căn cứ; về nợ chung do bà Bé H được triệu tập lần thứ 2 nhưng không đến, do đó yêu cầu của bà sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông X xin được ly hôn với bà T. Bà T hiện đang cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh An Giang.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa ông X và bà T có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện A, tỉnh An Giang nên phát sinh trách nhiệm pháp lý, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên nên được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu của ông X xin được ly hôn với bà T, HĐXX xét thấy:

Mặc dù Tòa án không trực tiếp làm việc được với bà T và bà cũng không gởi văn bản ý kiến trình bày cho Tòa án. Tuy nhiên, qua làm việc với ông X và chứng cứ thu thập được qua lời trình bày của bà T – phó ấp, nhận thấy mâu thuẫn của ông, bà là thật sự trầm trọng, nguyên nhân mâu thuẫn là do bà T thường xuyên lên con riêng ở thành phố nên hai vợ chồng xảy ra tranh cãi, tình cảm vợ chồng rạn nứt, đến tháng 5/2019 bà T đi thành phố sống cùng con gái riêng và ly thân với ông X cho đến nay không đồng ý hàn gắn quay chung sống với ông X. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, do đó yêu cầu ly hôn của ông X là chính đáng và hoàn toàn có căn cứ để chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về quan hệ con chung: Ông X và bà T không có con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Ông X khai không có, tuy nhiên bà T vắng mặt nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này bà T có chứng cứ khác chứng minh có tài sản chung và bà T có yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

[5] Về quan hệ nợ chung: Ông X và bà T có nợ Quỹ tín dụng nhân dân A – Phòng giao dịch Q số tiền 140.000.000 đồng và bà La Thị Bé H số tiền 60.000.000 đồng. Quỹ tín dụng yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng và không có yêu cầu độc lập, HĐXX công nhận việc tự thỏa thuận này của hai bên; Riêng bà Bé H được triệu tập hợp lần 2 nhưng vẫn vắng mặt nên HĐXX xem như bà từ bỏ yêu cầu độc lập, bà có quyền khởi kiện thành một vụ án khác khi có yêu cầu đối với ông X – bà T.

[6] Về án phí: Ông X phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 51, 53, 56, c a Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn X được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

Về án phí: Ông Nguyễn Văn X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm (được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí mà ông X đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011396 ngày 01/7/2019).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/9/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 378/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:378/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;