Bản án 377/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG 

BẢN ÁN 377/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 26 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 197/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 407/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thanh L, sinh năm: 1984.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1978

Cùng cư trú: Tổ 01, ấp T, thị trấn L, huyện A, tỉnh An Giang

Tại phiên tòa bà L, ông T cùng có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng ngày 27/05/2019 bà Trần Thanh L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông T1 là do tự tìm hiểu, yêu thương nhau được hai bên gia đình đồng ý đứng ra tổ chức lễ cưới vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ph vào ngày 10/01/2006. Sau khi kết hôn sống tại thị trấn L, hai vợ chồng cùng làm thuê, thu nhập ổn định. Đến năm 2016, ông T1 bỏ bê vợ con, thường xuyên nhậu với bạn bè, không phụ tiếp vợ chăm lo gia đình. Không chỉ vậy khi nhậu về ông kiếm chuyện với vợ con rồi ra tay đánh, các con bà khi thấy cha về là chạy trốn, hoảng sợ không dám đến gần. Nhiều lần được gia đình hai bên hàn gắn nhưng không được, bà đã cho ông nhiều cơ hội nhưng ông không sửa đổi. Nay nhận thấy tình cảm không còn, có quay về chung sống cũng không hạnh phúc nên quyết định xin ly hôn với ông T1.

Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Anh T2, sinh ngày 03/3/2007 và Nguyễn Phương T3, sinh ngày 02/10/2008, hiện do bà chăm sóc. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên nếu ông T1 tự nguyện cấp dưỡng nuôi con thì bà cũng đồng ý Về quan hệ tài sản chung: Bà và ông T1 có một căn nhà được cất trên nền đất của cha mẹ ruột bà kích thước ngang 3m dài 10m nhà tiền chế trị giá 40.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu được chia đôi giá trị căn nhà, giao lại cho ông T1 20.000.000 đồng bà tiếp tục quản lý và sử dụng căn nhà.

Về quan hệ nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn ông Nguyễn Văn T1 được Tòa án tống đạt hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vắng mặt không lý do, chỉ một lần tham gia hòa giải vào ngày 18/6/2019.

Tại phiên hòa giải ông Nguyễn Văn T1 trình bày: Về điều kiện đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn, thời gian chung sống ông thống nhất với lời trình bày của bà L. Bản thân ông thừa nhận có mâu thuẫn như bà L vừa trình bày và ông cũng đã sửa đổi nhưng bà L không đồng ý. Nay ông còn tình cảm nên xin được hàn gắn và không đồng ý ly hôn.

Về quan hệ con chung: Thống nhất với lời trình bày của bà L, ông đồng ý theo nguyện vọng của các con, ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về quan hệ tài sản chung: Ông thống nhất với lời trình bày của bà L. Tuy nhiên, ông không đồng ý ly hôn nên không đề cập đến vấn đề chia căn nhà của hai vợ chồng, tùy Tòa án quyết định.

Về quan hệ nợ chung: Thống nhất không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hai bên bảo lưu ý kiến vừa trình bày.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ, xác định tư cách của những người tham gia tố tụng là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử được đảm bảo. Về nội dung giải quyết vụ án, xét thấy yêu cầu ly hôn của bà L là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật; về phần tài sản chung xét thấy nhằm tạo sự ổn định cho bà L nuôi dưỡng và chăm sóc con chung sau khi ly hôn, đề nghị HĐXX chấp nhận bà L tiếp tục quản lý sử dụng căn nhà và hoàn lại ½ giá trị cho ông T1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà L xin ly hôn với ông T1. Ông T1 hiện đang cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh An Giang.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà L và ông T1 có đăng ký kết hôn tại xã P, huyện A, tỉnh An Giang vào năm 2006 nên phát sinh trách nhiệm pháp lý, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, nên được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu của bà L xin được ly hôn với ông T1, HĐXX xét thấy:

Bà L và ông T1 sau thời gian tìm hiểu, yêu thương nhau đã đi đến hôn nhân. Vợ chồng có một thời gian tương đối dài sống hạnh phúc cùng nhau. Trong quá trình sống chung đã phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân xuất phát từ việc ông T1 không chăm lo cho cuộc sống gia đình, có hành vi bạo lực, cụ thể là mỗi lẫn uống rượu say về thì có hành vi đánh đập vợ con của mình, làm cho cuộc sống gia đình căng thẳng và gây ức chế về mặt tâm lý đối với bà L. Điều này đã được chính ông T1 thừa nhận, bà L đã cho ông T1 cơ hội nhưng ông đã không có ý chí để khắc phục sửa đổi.

Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa bà L quan động viên vẫn kiên quyết ly hôn với ông T1, do đó yêu cầu của bà L xin được ly hôn với ông T1 là hoàn toàn có căn cứ để chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung: Bà L và ông T1 có 02 con chung tên Nguyễn Anh T2, sinh ngày 03/3/2007 và Nguyễn Phương T3, sinh ngày 02/10/2008, hiện do bà L chăm sóc.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, bà L và ông T đã thống nhất với nhau là bà L sẽ tiếp tục nuôi con chung và bà L tự nguyện không yêu cầu ông T1 phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên tại phiên tòa ông T1 tự nguyện cấp dưỡng và qua phân tích của Hội đồng xét xử bà L đã đồng ý sự tự nguyện này của ông T1.

Hội đồng xét xử xét thấy việc ông T1 tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với pháp luật và một phần để đóng góp công sức, trong việc nuôi con chung và điều này là có lợi cho bà L, nghĩ nên chấp nhận.

Như vậy ông T1 phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho mỗi cháu là 745.000đ/tháng, thời gian thực hiện việc cấp dưỡng kể từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu T2 và cháu T3 đủ tuổi trưởng thành và tự lập được .

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho bà L biết: Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là không cố định, sẽ có thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên và trong thời gian nuôi con bà phải có nghĩa vụ tạo điều kiện cho ông T1 đến thăm con chung, không ai cản trở ông T1 thực hiện quyền này.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Bà L và ông T1 thống nhất có 01 căn nhà tiền chế không gắn liền với quyền sử dụng đất kích thước ngang 03m dài 10m trị giá 40.000.000 đồng. Bà L thống nhất giao lại ½ giá trị căn nhà là 20.000.000 đồng, ông T1 thì không có ý kiến gì về phần tài sản chung. HĐXX xét thấy để đảm bảo sự ổn định về nơi ăn chốn ở cho bà L, có điều kiện tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cần chấp nhận yêu cầu của bà L về việc được tiếp tục sỡ hữu căn nhà và bà sẽ hoàn lại cho ông T1 số tiền 20.000.000đ là hoàn toàn phù hợp với pháp luật.

Thời gian thực hiện việc giao tiền sẽ được xem xét ở giai đoạn thi hành án khi án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về quan hệ nợ chung: Ông bà thống nhất không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, ông T1 chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con chung; bà L và ông T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về phần tài sản chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Các Điều 51, 53, 56, điều 59, điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thanh L.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thanh L được ly hôn với ông Nguyễn Văn T1.

Về quan hệ con chung: Bà L được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Anh T2, sinh năm 2007 và Nguyễn Phương T3, sinh năm 2008.

Ông T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu T2 và cháu T3 với mức mỗi cháu là 745.000đ/tháng, thời gian thực hiện việc cấp dưỡng là từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu T2 và cháu T3 đủ tuổi trưởng thành và tự lập được.

Bà L và những người thân trong gia đình phải tạo điều kiện cho ông T1 đến thăm con chung, không ai được cản trở ông T1 thực hiện quyền này.

Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định sẽ thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên.

Về quan hệ tài sản chung: Bà L được tiếp tục sở hữu căn nhà tiền chế không gắn liền với quyền sử dụng đất kích thước ngang 03m dài 10m, tọa lạc tại ấp T, thị trấn L, huyện A, tỉnh An Giang Bà L hoàn trả lại cho ông T1 số tiền 20.000.000 đồng. Thời gian giao tiền được thực hiện ở giai đoạn thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành đầy đủ khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

Về án phí: Bà Trần Thanh L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011317 ngày 28/5/2019) bà L nộp bổ sung 500.000 đồng; ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đ án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/9/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 377/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:377/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;