TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 377/2018/DS-PT NGÀY 16/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 129/2018/TLPT-DS ngày 14 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 55/2018/DS-ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2018/QĐ-PT ngày 01/11/2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Mạch Đình Q, sinh năm 1973. (có mặt) 1.2 Bà Lê Thị L, sinh năm 1974.
Cùng địa chỉ: số A , đường B, phường C, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
(Bà L ủy quyền cho ông Q theo văn bản ủy quyền ngày 16/11/2017).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Trần Minh T, sinh năm 1966.
2.2. Bà Nguyễn Thị Thanh S, sinh năm 1969. (có mặt)
Cùng địa chỉ: ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
(Ông T ủy quyền cho bà S theo văn bản ủy quyền ngày 05/9/2017).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Tiền Giang
Địa chỉ: Khu 3, thị trấn G, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn M - Chi cục trưởng.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Nghĩa N - Chấp hành viên sơ cấp (theo văn bản ủy quyền số 01/ GUQ-CCTHADS ngày 22/01/2018). (có mặt)
3.2. Anh Trần Minh S, sinh năm 1995. (vắng mặt)
3.3. Anh Trần Minh N, sinh năm 2000.
Cùng địa chỉ: ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
(Anh N ủy quyền cho bà S theo văn bản ủy quyền 22/3/2018)
4. Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Thị Thanh S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm, * Nguyên đơn ông Mạch Đình Q và bà Lê Thị L trình bày:
Trước đây vợ chồng ông bà có cho ông T, bà S vay tiền nhiều lần như sau: Ngày 30/4/2011 vay 1.000.000.000đồng, có làm biên nhận. Ngày 11/3/2013 vay thêm số tiền 1.000.000.000 đồng và 10.000 đô la Mỹ, có viết biên nhận, thỏa thuận lãi suất tiền Việt Nam là 4%/tháng, lãi suất đô la Mỹ 3,5%/tháng. Sau khi vay ông T, bà S trả tiền vốn lãi không đầy đủ nên vợ chồng ông có tiến hành đòi và gởi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã H nhờ giải quyết. Tại biên bản hòa giải ngày 16/5/2013 của Uỷ ban nhân dân xã H thì phía ông T, bà S thừa nhận còn nợ vợ chồng ông bà 2.400.000.000 đồng và hứa sẽ chuyển nhượng cho ông bà phần nhà đất thuộc thửa đất 1935, diện tích 270m2 ở ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang để trừ bớt nợ với giá thỏa thuận là 1.000.000.000 đồng. Do ông T, bà S đã thế chấp phần đất trên tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam- Chi nhánh Tây Tiền Giang nên ngày 01/7/2013 ông Q cùng ông T đến ngân hàng trả 400.000.000đồng và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất trên về. Cùng ngày ông bà cùng gia đình ông T tiến hành ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đến ngày 03/7/2013 Chi cục thi hành án dân sự huyện G ngăn chặn việc chuyển dịch quyền tài sản đối với phần đất trên nên ông bà không tiến hành sang tên được. Như vậy sau khi trừ số tiền chuyển nhượng giá trị phần nhà đất thì hiện nay ông T, bà S còn nợ ông bà 1.800.000.000đồng. Ông Q, bà L yêu cầu ông T, bà S phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013 và trả 1.800.000.000 đồng tiền vay còn nợ lại + tiền lãi theo lãi suất ngân hàng từ ngày 16/5/2013 đến nay ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
* Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh S trình bày:
Năm 2011 vợ chồng bà có vay của vợ chồng ông Q, bà L 1.000.000.000 đồng, sau đó vay thêm 500.000.000 đồng và 10.000 đô la Mỹ( qui ra tiền Việt Nam là 200.000.000 đồng). Như vậy vợ chồng bà nợ vợ chồng ông Q 1.700.000.000 đồng. Ngoài ra vợ chồng bà có vay ngân hàng nên vợ chồng ông Q bỏ ra 400.000.000 đồng trả ngân hàng để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 16/5/2013 Uỷ ban nhân dân xã H hòa giải thì vợ chồng bà có thừa nhận nợ 2.400.000.000 đồng. Nay bà đồng ý cùng chồng trả cho vợ chồng ông Q 2.100.000.000 đồng và đồng ý trả lãi theo lãi suất ngân hàng nhà nước từ ngày 16/5/2013 đến nay nhưng xin được trả dần vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đối với yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013 đối với thửa đất 1935, diện tích 270m2 ở ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang thì bà không đồng ý.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục thi hành dân sự huyện G trình bày: Chi cục thi hành án dân sự huyện G có thụ lý thi hành án đối với số tiền ông Trần Minh T, bà Nguyễn Thị Thanh S phải thi hành số tiền án phí 16.010.500 đồng và trả cho người được thi hành án là 376.460.000 đồng + lãi chậm trả.
Trong thời gian tổ chức thi hành án đến ngày 04/7/2013 Chi cục thi hành án có nhận được đơn yêu cầu ngăn chặn tẩu tán tài sản của bà Trương Thị C nên đã ra quyết định ngăn chặn số 25/QĐ-CCTHA ngày 04/7/2013 tạm dừng việc đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng là quyền sử dụng đất thửa đất số 1935, tờ bản đồ C7, diện tích 270m2, loại đất CLN và căn nhà trên đất. Ngày 18/12/2013 tiến hành việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản và kê biên quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nhưng chưa đăng ký bán đấu giá.
Đối với nội dung khởi kiện của ông Q, bà L yêu cầu ông T, bà S trả 1.800.000.000 đồng và tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013. Chi cục thi hành án huyện G không chấp nhận vì thời điểm chuyển nhượng là ngày 01/7/2013 sau khi quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 25/QĐST-DS ngày 03/6/2013 có hiệu lực pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Minh S, Trần Minh M được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và không có lời trình bày:
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 55/2018/DS-ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mạch Đình Q và bà Lê Thị L.
- Buộc ông Trần Minh T và bà Nguyễn Thị Thanh S trả cho ông Mạch Đình Q và bà Lê Thị L số tiền vốn vay là 1.800.000.000 (Một tỷ tám trăm triệu) đồng và 769.500.000( Bảy trăm sáu mươi chín triệu năm trăm nghìn) đồng tiền lãi. Tổng cộng 2.569.500.000 (Hai tỷ năm trăm sáu mươi chín triệu năm trăm nghìn) đồng.
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Mạch Đình Q, bà Lê Thị L với ông Trần Minh T, bà Nguyễn Thị Thanh S cùng thành viên trong hộ anh Trần Minh S theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013. Phần đất thuộc thửa đất số 1935, tờ bản đồ HMTC7, diện tích 270m2, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm. Nay là thửa 70, tờ bản đồ 28, diện tích đo đạc thực tế 276m2 tọa lạc ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang. Đã được UBND huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 01062 cấp ngày 27/11/2007 cho hộ ông Trần Minh T (hiện phần đất đang được ông Q, bà L quản lý, có phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất (photo) kèm theo).
Ông Q, bà L được quyền đến cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất theo qui định pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, phần nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự theo qui định của pháp luật.
* Ngày 11/4/2018, bị đơn Nguyễn Thị Thanh S có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm cải sửa bản án số 55/2018/DS-ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè theo hướng đồng ý hoàn trả cho vợ chồng ông Q, bà L số tiền 2.100.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định pháp luật, không đồng ý thực hiện hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 1935, diện tích 270m2, tọa lạc ấp M B, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn Nguyễn Thị Thanh S vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải toàn bộ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lí vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đại diện viện kiểm sát cho rằng yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở.Tuy nhiên tại phiên tòa ông Q tự nguyện hoàn trả tiền ngôi nhà theo định giá nên ghi nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các đương sự, Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét đơn kháng cáo và biên lai thu tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm của bà Nguyễn Thị Thanh S nộp ghi ngày 11/4/2018 (BL 206, 207) còn trong thời hạn luật định đúng theo quy định tại các Điều 271, 272 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật, Tòa sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là phù hợp với tính chất vụ án và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thuộc phạm vi xem xét giải quyết theo quy định tại các Điều 168, 450, 689, 697, 699 Bộ luật dân sự năm 2005 và các Điều 99, 167 Luật đất đai năm 2013;
[3] Về nội dung: Xét kháng cáo bà Nguyễn Thị Thanh S về việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm cải sửa bản án số 55/2018/DS-ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè theo hướng đồng ý hoàn trả cho vợ chồng ông Q, bà L số tiền 2.100.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định pháp luật, không đồng ý thực hiện hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 1935, diện tích 270m2, tọa lạc ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 30/4/2011 vợ chồng ông T, bà S có vay của vợ chồng ông Q, bà L số vay 1.000.000.000đồng, có làm biên nhận.Sau đó ông Q, bà L cho bà S và ông T vay tiếp 1.000.000.000 đồng và 10.000USD Mỹ. Ngày 11/3/2013 ông T, bà S có viết biên nhận 2.000.000.000 đồng và 10.000USD, thỏa thuận lãi suất tiền Việt Nam là 4%/tháng, lãi suất đô la Mỹ 3,5%/tháng. Sau khi vay tiền ông T, bà S trả tiền lãi không đầy đủ nên vợ chồng ông Q gởi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã H nhờ giải quyết. Tại biên bản hòa giải ngày 16/5/2013 của Uỷ ban nhân dân xã H thì ông T, bà S thừa nhận còn nợ vợ chồng ông Q, bà L 2.400.000.000 đồng và hứa đến cuối năm 2013 hai bên thỏa thuận bán nhà để bà L mua trừ nợ. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Q thừa nhận do trong thời gian vay ông T, bà S không trả lãi nên trong 2.400.000.000 đồng có 180.000.000 đồng là tiền lãi. Ông T, bà S chỉ thừa nhận có vay của ông Q, bà L số tiền 2.100.000.000 đồng nên đồng ý trả cho ông Q, bà L số tiền 2.100.000.000 đồng cộng tiền lãi phát sinh từ ngày vay đến nay theo quy định pháp luật. Bà S trình bày giấy nợ ngày 11/3/2013 là do ông Q thuê giang đến nhà bà vào ban đêm đe dọa ép buộc chồng bà viết. Xét lời khai nại của bị đơn không được ông Q thừa nhận, bà S không có giấy tờ chứng cứ gì chứng minh. Căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ ông Q, bà L xác định, ông T, bà S có vay của của ông Q, bà L đến ngày 11/3/2013 vốn lãi là 2.400.000.000 đồng là có căn cứ.
Sau khi xác định số nợ là 2.400.000.000 đồng, ông T và bà S có thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Q, bà L nhà và đất thuộc thửa đất 1935, diện tích 270m2 ở ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang với giá thỏa thuận là 1.000.000.000 đồng để trừ vào số nợ 2.400.000.000 đồng. Do ông T, bà S đã thế chấp phần đất trên tại Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam- Chi nhánh Tây Tiền Giang nên ngày 01/7/2013 ông Q cùng ông T đến ngân hàng, ông Q bỏ ra trả 400.000.000 đồng để trả Ngân hàng và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất trên về. Như vậy ông T, bà S nợ ông Q, bà L 2.800.000.000 đồng trừ tiền chuyển nhượng đất là 1.000.000.000 đồng, ông T, bà S còn nợ lại ông Q, bà L 1.800.000.000 đồng. Cùng ngày hai bên có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Phòng công chứng số 3 tỉnh Tiền Giang nhưng chưa làm thủ tục sang tên lý do ngày 03/7/2013 Chi cục thi hành án dân sự huyện G ngăn chặn việc chuyển dịch quyền tài sản đối với phần đất trên. Từ đó hai bên không thực hiện việc chuyển nhượng được nên dẫn đến tranh chấp.
Xét về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà S thừa nhận có cùng là ông Trần Minh T thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Q, bà L phần đất thuộc thửa đất 1935, diện tích 270m2 ở ấp M, xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang để trừ bớt nợ với giá thỏa thuận là 1.000.000.000 đồng. Ngày 01/7/2013, ông Q bỏ ra 400.000.000 đồng để trả nợ ngân hàng thay vợ chồng ông T, bà S để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về. Cùng ngày hai bên có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại phòng công chứng số 3 tỉnh Tiền Giang. Bà S cho rằng chỉ chuyển nhượng đất, không chuyển nhượng nhà, nay chỉ đồng ý trả tiền vay là 2.100.000.000 đồng, không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất nói trên. Xét yêu cầu của bà S là không có căn cứ. Bởi, Tại biên bản hòa giải ngày16/5/2013 của Uỷ ban nhân dân xã H và bản cam kết ngày 21/6/2013 ông T cũng đồng ý bán nhà, đất cho ông Quý bà L với giá là 1.000.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng ông T, bà S cũng đã giao nhà đất cho ông Q, bà L quản lý sử dụng từ khi ký hợp đồng đến nay có chính quyền địa phương xác nhận. Hơn nữa, theo kết quả định giá của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xác định (BL77-78) giá trị nhà và đất có giá gần 1.000.000.000 đồng là phù hợp với thỏa thuận chuyển nhượng nhà và đất để trừ bớt số nợ 1.000.000.000 đồng mà hai bên đã thống nhất. Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013 giữa ông Q, bà L và ông T, bà S không có mô tả về căn nhà trên đất. Nhưng như đã phân tích ở trên việc chuyển nhượng nhà, đất là có thật, các bên đã thực hiện việc cấn trừ tiền chuyển nhượng vào tiền nợ vay không nhằm mục đích tẩu tán tài sản và thực hiện hợp đồng này ông T, bà S cũng đã chuyển giao tài sản cho ông Q, bà L quản lý từ ngày 01/7/2013 đến nay.
Tuy nhiên tại đơn khởi kiện ngày 07/8/2017 ông Q yêu cầu bà S, ông T hoàn trả số tiền 1.800.000.000 đồng tiền vay còn nợ lại + tiền lãi theo lãi suất ngân hàng từ ngày 16/5/2013 đến nay trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật và yêu cầu thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng và tài sản gắn liền với đất lập ngày 01/7/2013. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Mạch Đình Q, bà Lê Thị L với ông Trần Minh T, bà Nguyễn Thị Thanh S cùng thành viên trong hộ anh Trần Minh S theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/7/2013. Còn ngôi nhà gắn liền với đất ông Q, bà L đang quản lý Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết như vậy căn nhà trên đất thuộc quyền quản lý sử dụng của ai Tòa án cấp sơ thẩm chưa giao xem xét giải quyết căn nhà là chưa giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự vi phạm Điều 5 Bộ Luật tố tụng dân sự.
Từ những phân tích nêu trên xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng. Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Để đảm bảo hai cấp xét xử cần hủy án sơ thẩm số: 55/2018/DS-ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện cái Bè. Giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang giải quyết lại theo thủ tục chung.
Do bản án bị hủy nên yêu cầu kháng cáo của bà S chưa xem xét.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[4] Về án phí: Do bản án bị hủy nên bà S không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Xử:
1. Hủy bản án dân sự sơ thẩm 55/2018/DS-ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
2. Về án phí:
Bà Nguyễn Thị Thanh S không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Bà S được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 08485 ngày 11/4/2018 của Chi cục thi hành dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 377/2018/DS-PT ngày 16/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 377/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về