TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 373/2023/HS-PT NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 30 tháng 8 năm 2023, điểm cầu Trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nối với điểm cầu Thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 322/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Trần Văn T về tội “Giết người”. Do Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2023/HS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có kháng cáo.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trần Văn T, sinh ngày 20-7-1985 tại tỉnh Đắk Lắk;
Nơi đăng ký HKTT: thôn D, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: buôn K, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Trần Văn S (đã chết) và bà Phan Thị K, sinh năm 1950; bị cáo chưa có vợ, con (bị cáo đang chung sống như vợ chồng với chị T1, sinh năm 1979); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2023 đến nay, có mặt tại điểm cầu thành phần.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Hữu H – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk (có mặt tại điểm cầu thành phần).
- Bị hại: anh Trần Văn H1, sinh năm 1989 (đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của người bị hại: ông Trần Văn T2, sinh năm 1964 và bà Lê Thị D, sinh năm 1964; cùng trú tại: Buôn K, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk ( có mặt tại điểm cầu thành phần).
Ngoài ra, trong vụ án còn có người làm chứng Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 12/01/2023, Trần Văn T uống rượu tại nhà chị T1 (buôn K, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk) cùng một số người bạn là Trần Văn H1, Mai Xuân P, Đào Văn B đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì nghỉ. T vào phòng đi ngủ còn H1, P, B đi về nhà. Đến 14 giờ cùng ngày, cả nhóm lại tiếp tục tụ tập uống rượu, được một lúc thì cùng rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh liêng, thắng thua bằng tiền mặt, để lấy tiền thắng thua mua bia về tiếp tục uống, số tiền đánh bạc mỗi ván là 10.000 đồng – 20.000 đồng (tổng số tiền đánh bạc tại thời điểm khám nghiệm hiện trường thu giữ trên chiếu bạc là 380.000 đồng). Đến 15 giờ 30 phút, khi H1 thắng được hơn 100.000 đồng thì H1 nói mọi người nghỉ, không đánh bạc nữa thì T không đồng ý, T cầm bài ném vào góc nhà và nói “chơi vậy không được, bữa sau không bài bạc gì nữa”, lúc này H1 nói với T “uống rượu vào nói nhiều” rồi dùng tay đấm vào mặt T một cái (không gây thương tích gì) thì được P và B can ngăn nhưng giữa H1 và T vẫn tiếp tục chửi nhau. Bực tức, T đi xuống nhà bếp lấy 02 con dao, tay phải T cầm một con dao bầu, có lưỡi sắc, nhọn, dài 31cm; tay trái T cầm một con dao thái, có lưỡi sắc, mũi bằng, dài 24,5cm chạy lên đến phòng ngủ thì được B và T1 can ngăn, ôm T lại nhưng bị Thương đẩy ra. Ngay sau đó, T chạy lên phòng khách thì tiếp tục được P ôm ghì lại để can ngăn nhưng bị Thương hất ngã, rồi T lao về phía H1, đứng đối diện H1, tay phải T cầm dao bầu đâm 01 nhát trúng vào cổ phải của H1 khiến H1 gục xuống, cùng lúc này mọi người tiếp tục chạy đến can ngăn, đưa H1 đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện K nhưng H1 đã tử vong trên đường đi cấp cứu do vết thương quá nặng. Còn T sau khi dùng dao đâm H1 đã chạy xuống cửa hông phía sau nhà vứt con dao bầu vào góc tường và ném con dao thái về phía vườn nhà chị T1 rồi bỏ trốn. Đến 22 giờ cùng ngày, T trình diện và đầu thú tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K. Tại biên bản khám nghiệm tử thi ngày 12/01/2023 thể hiện: Tử thi được gia đình và chính quyền địa phương nhận diện và xác nhận đúng là Trần Văn H1, sinh năm 1989, trú tại: Buôn K, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tại vùng cổ phải tử thi có một vết thương hình khe, nằm ngang dài 3,8cm, hở rộng 1,8cm, sâu 10cm, đầu tù phía trước, đầu nhọn ra sau, chiều hướng từ phải sang trái, từ trước ra sau, từ trên xuống dưới. Mổ tử thi: Tụ máu dưới da cơ ức đòn chủm dưới vết thương. Đứt bán phần cơ ức đòn chủm, đứt động mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong, mẻ xương cột sống cổ số 4 bên phải.
Tại bản Kết luận giám định số 136/KL-KTHS ngày 19/01/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận về nguyên nhân tử vong của Trần Văn H1: Mất máu cấp dẫn đến suy tuần hoàn cấp không hồi phục.
Đối với số tiền 380.000 đồng và 01 lon sữa bò đã thu giữ được trong quá trình khám nghiệm hiện trường liên quan đến hành vi đánh bạc của Trần Văn T, Đào Văn B, Mai Xuân P, Trần Văn H1 (đã tử vong), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã xác minh các đối tượng T, B, P đều không có tiền án, tiền sự về hành vi “Đánh bạc”, “Tổ chức đánh bạc” hay “Gá bạc” do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã có công văn chuyển vụ việc, tài liệu và toàn bộ số tiền tang vật 380.000 đồng kèm một lon sữa bò đến Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk để xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Trần Văn T đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại anh Trần Văn H1 số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Gia đình bị hại đã nhận số tiền trên và yêu cầu bị cáo Trần Văn T phải tiếp tục bồi thường thêm các khoản chi phí mai táng và thiệt hại về tính mạng, tinh thần với tổng số tiền 90.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2023/HS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Giết người”.
[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 39; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trần Văn Thương T3 chung thân. (Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2023).
[3] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 584; Điều 585 và Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Bị cáo Trần Văn T phải bồi thường cho Đại diện hợp pháp của bị hại (Ông Trần Văn T2 và bà Lê Thị D) về chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và chi phí hợp lý với tổng số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Chấp nhận việc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho Đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Buộc bị cáo tiếp tục phải bồi thường cho Đại diện hợp pháp của bị hại số tiền còn lại là 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và công bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/6/2023, bị cáo Trần Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 15/6/2023, đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn T2 và bà Lê Thị D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Văn T với nội dung: đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo từ tù chung thân thành tù có thời hạn.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Đề nghị HĐXX giảm hình phạt từ chung thân xuống tù có thời hạn. Bởi lẽ, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo đã tác động cho gia đình bồi thường 50 triệu đồng, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm án cho bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo và bị cáo trình bày ý kiến: bị cáo Trần Văn T là lao động chính trong gia đình, hiện chỉ có mẹ già cần chăm sóc, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo. Trong quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo cũng đã tác động gia đình bồi thường them 50 triệu đồng cho gia đinh bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được chuyển sang hình phạt tù có thời hạn.
Đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn T2 và bà Lê Thị D trình bày: sự việc xảy ra cũng có một phần lỗi của bị hại và trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thêm số tiền 50.000.000 đồng. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, luận cứ bào chữa của luật sư, lời khai của bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, người bị hại và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.
[2]. Về tội danh: khoảng 15 giờ 30 phút ngày 12/01/2023, sau khi đã uống rượu và đánh bạc, giữa Trần Văn T và anh Trần Văn H1 đã xảy ra mâu thuẫn, cãi vã thì anh H1 dùng tay đấm vào mặt T một cái và được P và B can ngăn nhưng cả 2 vẫn tiếp tục cãi nhau. T đi xuống nhà bếp lấy 02 con dao (01con dao bầu, có lưỡi sắc, nhọn, dài 31cm; 01 con dao thái, có lưỡi sắc, mũi bằng, dài 24cm) rồi chạy về phía H1, đứng đối diện, tay phải cầm dao bầu đâm 01 nhát trúng vào cổ phải của H1 khiến H1 gục xuống. Tại bản Kết luận giám định số 136/KL-KTHS ngày 19/01/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận về nguyên nhân tử vong của Trần Văn H1: mất máu cấp dẫn đến suy tuần hoàn cấp không hồi phục.
Với hành vi trên của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử Trần Văn T phạm vào tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Văn T và đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn T2, bà Lê Thị D, thì thấy:
Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại 2 lần với số tiền 60.000.000 đồng (Ngày 16/6/2023 bồi thường thêm cho gia đình bị hại 50.000.000 đồng), gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú tại Cơ quan điều tra nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Những tình tiết giảm nhẹ này Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và kháng cáo giảm nhẹ với lý do bị cáo là lao động chính trong gia đình và có mẹ già, bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội làm lại cuộc đời. Người đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn T2, bà Lê Thị D xác nhận sau khi xét xử sơ thẩm, đã nhận thêm 50.000.000 đồng tiền khắc phục hậu quả và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử bị cáo hình phạt tù có thời hạn.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong tranh cãi đời sống thường ngày, Trần Văn T sử dụng con dao bầu là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng cổ là vùng trọng yếu và tước đi sinh mạng của anh Trần Văn H1 nên bị cáo phạm tội “Giết người” theo khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù đã được B, P can ngăn nhưng bị cáo vẫn quyết tâm tước đi tính mạng của người khác thể hiện thái độ côn đồ, sẵn sàn sử dụng bạo lực ra tay với người có hành động, lời nói trái với ý kiến của mình. Mặc dù, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 50.000.000 đồng và được gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, tính chất và hành vi của bị cáo trong vụ án này để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, gây đau thương mất mát quá lớn cho gia đình bị hại nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội không thời hạn mới đủ nghiêm, đảm bảo răn đe và phòng ngừa chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm đã tuyên.
[4]. Về trách nhiệm dân sự: tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị hại xác nhận đã nhận thêm số tiền 50.000.000 đồng tiền bồi thường từ gia đình bị cáo. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm ghi nhận bị cáo đã bồi thường tổng số tiền 60.000.000 đồng. Do đó, bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 40.000.000 đồng cho Đại diện hợp pháp của bị hại.
[5]. Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo của bị cáo Trần Văn T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 của Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T và đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn T2, bà Lê Thị D. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2023/HS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với bị cáo Trần Văn T. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 39; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: bị cáo Trần Văn Thương T3 chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 13/01/2023.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 584; Điều 585 và Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Bị cáo Trần Văn T phải bồi thường cho Đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Văn T2 và bà Lê Thị D tiền về chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và chi phí hợp lý với tổng số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho Đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng). Buộc bị cáo tiếp tục phải bồi thường cho Đại diện hợp pháp của bị hại số tiền còn lại là 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 373/2023/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 373/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về