TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 37/2019/HS-PT NGÀY 25/03/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 25 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 (theo thủ tục rút gọn) đối với bị cáo Nguyễn Văn L, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Văn Z, sinh ngày 01/11/1981, tại xã Đức C, huyện Đức T, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn Châu T, xã Đức C, huyện Đức T, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: Không đi học; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ; vợ: Lưu Thị H, sinh năm 1985; con: Có 02 người, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/02/2014, bị Công an huyện Đức Thọ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 5.000.000 đồng về hành vi Buôn bán pháo nổ, đến ngày 11/02/2014 chấp hành xong quyết định; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Quốc T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/12/2018, Nguyễn Văn L nhận được điện thoại của một người mà theo L khai tên là H ở xã Tùng A, huyện Đức T, tỉnh Hà Tĩnh thuê chở pháo từ xã Đức C đến xã Liên M, huyện Đức T với giá 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng. L đồng ý và điều khiển xe mô tô ba bánh (Loại xe tự chế dành cho người bị khuyết tật), gắn biển kiểm soát 51M3-3456 đi đến khu vực cầu Máng, xã Đức C thì được một người đàn ông không quen biết giao cho L một bao tải màu trắng bên trong có 07 hộp pháo và buộc vào phía sau xe cho L, rồi L điều khiển xe mô tô chở 07 hộp pháo nói trên đi theo đường liên xã Tùng-Châu. Khi đến địa phận thôn Châu T, xã Đức C, huyện Đức T thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Thọ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng của vụ án.
Tại bản kết luận giám định số 52/GĐP-PC09 ngày 25/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: 07 hộp giấy bìa các tông (Kích thước mỗi hộp dài 25cm, rộng 15cm, cao 15cm, bên ngoài có nhiều hoa văn và ghi chữ nước ngoài. Bên trong mỗi hộp có 09 vật hình trụ được liên kết với nhau), có khối lượng 15,9 kilogram là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (Có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).
Bản án sơ thẩm số 01/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ đã quyết định: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 191; Điểm i, p, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/01/2019, bị cáo Nguyễn Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (xin chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt tù cho hưởng án treo).
Tại phiên tòa bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án và nội dung kháng cáo của bị cáo đã đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận nội dung kháng của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như án sơ thẩm đã tuyên. Vì vậy, có căn cứ khẳng định Bản án sơ thẩm số 01/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ tuyên bị cáo về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt (xin chuyển từ hình phạt tù sang hình phạt tù cho hưởng án treo), Hội đồng xét xử thấy rằng:
Mặc dù, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì động cơ vụ lợi mà bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã làm mất an ninh, trật tự ở địa phương và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Mặt khác, bị cáo có nhân thân xấu, ngày 10/02/2014, bị Công an huyện Đức Thọ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 5.000.000 đồng về hành vi “Buôn bán pháo nổ”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để chấp hành pháp luật mà lại có hành vi phạm tội; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì mới để Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Vì vậy, mức án và biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt là có căn cứ, đã thể hiện tính khoan hồng, giáo dục, răn đe, phù hợp với các quy định của pháp luật.
[3] Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 21, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xét thấy bị cáo Nguyễn Văn L là người bị khuyết tật nặng nên được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 01/2019/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
2. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 191; Điểm i, p, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 21, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự phúc thẩm cho Nguyễn Văn L.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án 37/2019/HS-PT ngày 25/03/2019 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 37/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về