Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 36/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2018 về việc Ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2018, giữa:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1987; thường trú: Ấp Tân Long 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tình Bến Tre; tạm trú: 34/47, đường số 15, khu phố 9, phường Bình Hưng Hòa, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh T, sinh năm 1984; thường trú: Ấp Phụng An, xã An Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: tổ 1, khu phố 6, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Trần Thị Thanh T và ông Huỳnh Thanh T tự nguyện chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tình Bến Tre ngày 20/7/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn, năm 2013 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, ông T không quan tâm chăm lo tới gia đình, vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi vả về vấn đề tài chính. Bà T bị bệnh phải phải điều trị hết nhiều chi phí, ông T không chăm sóc bà T mà bỏ về quên (Sóc Trăng) sinh sống và cắt đứt mọi liên hệ với bà T, thậm chí ông T cũng không gọi điện hỏi thăm tình hình của con chung. Bà T đã tìm cách liên hệ với ông T để hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không được, bà T và ông T đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay.Bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Trần Thị Thanh T yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Thanh T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống ông T và bà T có 01 con chung tên Huỳnh Quốc B, sinh ngày 23/8/2010.  Khi ly hôn, bà Trần Thị Thanh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Huỳnh Thanh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn bà Trần Thị Thanh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Bị đơn ông Huỳnh Thanh T đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, chuyển giao tài liệu, chứng cứ nguyên đơn khởi kiện, thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông T không đến Tòa án, cũng không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng.

Theo bản tự khai ngày 29/01/2018 của cháu Huỳnh Quốc B trình bày: Nếu cha mẹ ly hôn, cháu B có nguyện vọng được sống với mẹ Trần Thị Thanh T.

Theo giấy xác nhận ngày 09/01/2018 của Công an phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xác định Huỳnh Thanh T, sinh năm 1984 có đăng ký tạm trú và sinh sống tại - Số 023/H, tổ 1, khu phố 6, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Theo biên bản xác minh ngày 22/01/2018 tại Ủy ban nhân dân phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xác định địa phương không nhận được đơn yêu cầu giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng bà Trần Thị Thanh T và ông Huỳnh Thanh T.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên tại phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên. Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; bị đơn đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục vắng mặt những người tham gia tố tụng là đúng qui định.

Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định cuộc sống vợ chồng bà Trần Thị Thanh T và ông Huỳnh Thanh T không có hạnh phúc, do bất đồng quan điểm, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc nhau, không có tiếng nói chung. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay. Như vậy, mâu thuẫn của bà T và ông T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T. Về con chung: Hiện tại cháu Huỳnh Quốc B, sinh ngày 23/8/2010 đang sống cùng bà T, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháo B, đồng thời cháu B có nguyện vọng được sống với bà T, do đó cần giao cháu B cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên cần ghi nhận; tài sản chung, nợ chung bà T không yêu cầu nên không phải xem xét. Bà T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả công bố các tài liệu chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình mà bị đơn cư trú tại thị xã Tân Uyên và nguyên đơn đề nghị TAND thị xã Tân Uyên giải quyết. Căn cứ vào Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

[2] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn bà Trần Thị Thanh T có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn ông Huỳnh Thanh T được triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai mà vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thanh T và ông Huỳnh Thanh T là những người đủ điều kiện kết hôn; chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu để tiến tới hôn nhân; có đăng ký kết hôn tại xã Ủy ban nhân dân xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre ngày 20/7/2010 theo giấy chứng kết hôn số 88/2010, quyển số 01/2010, theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đây là hôn nhân hợp pháp.

[2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Bà Trần Thị Thanh T xác định cuộc sống chung của bà T và ông T không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, chính vì những lý do này mà vợ chồng sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Hai bên đã đưa ra nhiều giải pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết quả nên bà T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T.

Quá trình giải quyết vụ án, ông T không đến Tòa án cho thấy ông T không muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình. Về phía bà T trong quá trình tố tụng xác định hoàn toàn không còn tình cảm với ông T và không thể tiếp tục chung sống với ông T . Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ chồng, nhưng quan hệ hôn nhân của bà T và ông T đã không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà T và ông T trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà T có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T là có cơ sở chấp nhận.

[2] Về con chung: Bà Trần Thị Thanh T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung Huỳnh Quốc B, sinh ngày 23/8/2010. Xét thấy, hiện tại cháu B đang sống cùng bà T, bà T có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu B và cháu B có nguyện vọng sống cùng bà T. Do vậy, yêu cầu được nuôi con của bà T là có căn cứ chấp nhận quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử nghi nhận.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 235, 271, 273, 278 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy  ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án,

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thanh T về việc ly hôn với ông Huỳnh Thanh T như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thanh T được ly hôn ông Huỳnh Thanh T.

- Về con chung: Bà Trần Thị Thanh T được trực tiếp nuôi dưỡng con chun gHuỳnh Quốc B, sinh ngày 23/8/2010.

Bà Trần Thị Thanh T và ông Huỳnh Thanh T đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Bà Trần Thị Thanh T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0013651 ngày 18/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo của các đương sự: Bà Trần Thị Thanh T và và ông Huỳnh Thanh T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 18/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;