TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 365/2022/DS-PT NGÀY 08/06/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 134/2021/TLPT- DS ngày 28 tháng 01 năm 2021, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2020/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 725/2022/QĐPT-DS ngày 17 tháng 5 năm 2022; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Dương Thị K Thị L, sinh năm 1976 (có mặt), 2. Ông Thạch Trưởng Đ, sinh năm 1973 (chết ngày 09/10/2020) Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Thạch Trưởng Đ:
2.1 Bà Dương Thị K Thị L (có mặt) 2.2 Anh Thạch Trường N (vắng mặt) 2.3 Anh Thạch Trường Đ(vắng mặt) Cùng địa chỉ cư trú: 191, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của anh Thạch Trường N, anh Thạch Trường Đ:
Bà Dương Thị K Thị L (có căn cước nêu trên, theo các giấy uỷ quyền số 86, 87/2022, quyền số 01/2022 SCT/HĐ-GD ngày 24/3/2022 của UBND xã Phú Tân).
- Bị đơn:
1. Bà Lâm Thị Thu S, sinh năm 1973 (có mặt) 2. Bà Danh Thị B, sinh năm 1942 (chết ngày 14/5/2022). Cùng địa chỉ cư trú: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Danh Thị B: Bà Lâm Thị Thu S (có căn cước nêu trên, có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Thạch Lâm Hải V, sinh năm 1996 (vắng mặt) 2. Chị Thạch Lâm Thị Thùy T, sinh năm 2000 (vắng mặt) 3. Anh Thạch Lâm Hải Q, sinh năm 1993 (có mặt) 4. Chị Danh Thị Minh N, sinh năm 1987 (vắng mặt) Cùng địa chỉ cư trú: ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
5. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ trụ sở: 18 Hùng Vương, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
6. Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ trụ sở: Đường Trần Phú, ấp Cầu Đồn, thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
7. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ trụ sở: ấp Xây Cáp, thị trấn Châu Thành,huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
8. Ông Thạch Sà H, sinh năm 1972; Địa chỉ cư trú: ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
- Người làm chứng: Ông Đỗ S, sinh năm 1958; Địa chỉ cư trú: 191 ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Người kháng cáo: Bà Danh Thị B là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/11/2017, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn có người đại diện hợp pháp trình bày:
Ngày 25/12/2007, UBND huyện M (nay là huyện C), tỉnh Sóc Trăng có cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 864367 cho bà Dương Thị K (mẹ ruột của ông Thạch Trưởng Đ) phần đất có diện tích 1.272,4m2, thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Sau khi bà Dương Thị K chết, ông Thạch Trưởng Đ làm thủ tục sang tên và được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 237648 ngày 28/7/2017 với thửa đất trên.
Hiện trạng trên phần đất thửa 917 này thì bà Danh Thị B có xin bà Dương Thị K ở nhờ diện tích 5m x 20m. Sau đó bà Danh Thị B tiếp tục lấn chiếm đất kế bên giao cho bà Lâm Thị Thu S ở với diện tích 5m x 20m để cất nhà ở.
Ngày 27/7/2017, thấy các hộ phía sau không có lối đi, ông Thạch Trưởng Đ mở lối đi cho các hộ phía sau đi nhờ trên phần đất của ông Thạch Trưởng Đ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà Danh Thị B và bà Lâm Thị Thu S ngăn chặn, sau đó phát sinh tranh chấp, ở ấp và xã đã hòa giải nhưng không thành, nay ông Thạch Trưởng Đ, bà Dương Thị K Thị L khởi kiện đến Tòa án, yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc bà Danh Thị B di dời căn nhà và giao trả phần đất có diện tích 100m2 (5m x 20m) ra khỏi phần diện tích 1.272,4m2, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C;
2. Buộc bà Lâm Thị Thu S di dời căn nhà và giao trả phần đất có diện tích 100m2 (5m x 20m) ra khỏi phần diện tích 1.272,4m2, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Danh Thị B có đơn yêu cầu phản tố trình bày:
Vào năm 1977, bà Nghet (mẹ của bà Dương Thị K và là bà ngoại của ông Thạch Trưởng Đ) có cho bà Danh Thị B ở nhờ trên phần đất của bà Nghet. Đến khi có chính sách trang trải đất đai thì gia đình bà Danh Thị B được cấp 05 công đất (phần đất này được trang trải từ đất của gia đình bà Nghet). Bà Danh Thị B canh tác được vài năm thì bà Dương Thị K yêu cầu bà Danh Thị B giao lại 05 công đất, đổi lại bà Dương Thị K sẽ cho bà Danh Thị B hết thửa đất đang ở.
Từ khi trao đổi đất, gia đình bà Danh Thị B vẫn ở trên đất và có trồng 05 cây dừa, 01 cây cóc và các cây tạp. Bà Danh Thị B đã được Nhà nước xây dựng nhà tình nghĩa trên đất. Năm 2006, bà Danh Thị B có cho cháu Nguyễn Thị L cất nhà giáp với nhà bà Danh Thị B (là nền nhà bà Lâm Thị Thu S đang ở hiện nay), nhưng bà Loan ở được vài năm thì dỡ nhà đi, vì được Nhà nước cấp cho nhà tình thương cũng ở gần phần đất trên. Năm 2010, bà Danh Thị B mới cho con là Sương cất nhà ở, sau đó bà Lâm Thị Thu S cũng được Nhà nước hỗ trợ cất nhà tình thương trên phần đất này.
Do nhà bà Danh Thị B ở bị cháy, nên bà được Nhà nước hỗ trợ xây cất lại. Thời điểm đó bà Dương Thị K vẫn còn sống và không hề tranh chấp gì, đến khi bà Dương Thị K mất thì con bà Dương Thị K là Ông Thạch Trưởng Đ lại kiện yêu cầu bà Danh Thị B phải di dời nhà trả lại đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Nên bà Danh Thị B có yêu cầu phản tố đến Tòa án, yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Công nhận phần đất diện tích 864,9m2 (đo đạc thực tế 802,2m2) do bà Danh Thị B đang quản lý có số đo tứ cận như sau: Hướng Đông giáp đất bà Mai có số đo 31m; Hướng Tây giáp đất bà Dương Thị K có số đo 31m; Hướng Nam giáp lộ đất có số đo 27,9m; Hướng Bắc giáp đất bà Khưm có số đo 27,9m là thuộc quyền sử dụng của bà Danh Thị B;
2. Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Thạch Trưởng Đ đối với phần diện tích bà Danh Thị B đang quản lý là 864,9m2 (đo đạc thực tế 802,2m2) thuộc thửa 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C.
Ngày 16 tháng 9 năm 2019, bị đơn bà Danh Thị B có đơn yêu cầu gửi đến Tòa án trình bày cho rằng phần diện tích bà Danh Thị B đang quản lý là 864,9m2 (đo đạc thực tế 802,2m2) thuộc thửa 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, do gia đình bà đã ở từ năm 1978 cho đến nay. Tuy nhiên, nay bà được biết phần đất trên bà Dương Thị K được UBND huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 864367 ngày 25/12/2007. Từ giấy chứng nhận này ông Thạch Trưởng Đ mới được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nên bà có đơn yêu cầu bổ sung gửi đến Tòa án yêu cầu giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 864367 do UBND huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp cho Kim ngày 25/12/2007 đối với phần đất có diện tích 1.432m2, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M (nay là huyện C), tỉnh Sóc Trăng.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng có người đại diện hợp pháp trình bày:
Phần đất diện tích 1.432m2 (trong đó đất ONT 300m2, đất CLN 1.132m2, 540m2 thuộc hành lang an toàn giao thông), thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc xã An Hiệp, huyện M (nay là huyện C), tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc từ trước năm 1975 của bà Dương Thị K (mẹ của ông Thạch Trưởng Đ); Đến ngày 25/12/2007 bà Dương Thị K được UBND huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 864367.
Ngày 23/01/2009, bà Dương Thị K chuyển nhượng diện tích 210m2 (trong đó đất ONT 77m2, đất CLN 133m2) trong thửa đất trên cho ông Đỗ S. Diện tích đất của bà Dương Thị K còn lại là 1.222m2 (trong đó đất ONT 223m2, đất CLN 999m2).
Năm 2015 bà Dương Thị K chết, ông Thạch Trưởng Đ được thừa kế phần đất này và được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 237648 ngày 28/7/2017, diện tích 1.272,4m2 (trong đó đất ONT 223m2, đất CLN 1.049m2, tăng 50,4m2 do sai số khi đo đạc hiện trạng; 96,9m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông). Qua kiểm tra, việc thực hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận cho ông Thạch Trưởng Đ có tiến hành đo đạc thửa đất và những người sử dụng đất liền kề có ký xác nhận giáp ranh đất vào Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất; tuy nhiên, chưa xem xét đến hiện trạng trên đất có 02 căn nhà của bà Danh Thị B và bà Lâm Thị Thu S đang quản lý.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn lại trong vụ án, đã được Tòa án tống đạt và triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt và cũng không có văn bản ý kiến gửi đến Tòa án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2020/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 165, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 163, Điều 164, Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 3, 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ các khoản 1, 5 Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, [1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thạch Trưởng Đ, bà Dương Thị K Thị L.
[1.1] Buộc bị đơn bà Danh Thị B có trách nhiệm trả giá trị quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 104,5m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng với số tiền 7.315.000 đồng cho ông Thạch Trưởng Đ, bà Dương Thị K Thị L.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả lãi cho người được thi hành án với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành án.
Ổn định cho bà Danh Thị B quyền sử dụng đất có diện tích 104,5m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng có tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 10,67m + 1,13m + 12,17m;
- Hướng Tây giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 10,38m + 1,13m + 12,17m;
- Hướng Nam giáp hẻm đất số đo 4,42m;
- Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất số 917 có số đo 4,40m.
(Kèm theo bản vẽ của tòa án) Bà Danh Thị B được quyền đến cơ quan chức năng để điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 237648 ngày 28-7-2017 đối với phần đất diện tích 104,5m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng sau khi án có hiệu lực pháp luật.
[1.2] Buộc bị đơn bà Lâm Thị Thu S tháo dỡ căn nhà và một số cây trồng trên đất trả lại cho nguyên đơn ông Thạch Trưởng Đ, bà Dương Thị K Thị L phần đất có diện tích 43,7m2 và nền chuồng heo diện tích 7,90 m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng có tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 7,53m + 3,41m;
- Hướng Tây giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 7,53m + 3,41m;
- Hướng Nam giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 04m;
- Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 04m;
(Kèm theo sơ đồ thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng).
[2] Không chấp nhận phản tố của bị đơn bà Danh Thị B: “Về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 864367 do Ủy ban nhân dân huyện M cấp cho bà Dương Thị K ngày 25/12/2007 đối với phần đất có diện tích 1.432m2, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện M (nay làhuyện C), tỉnh Sóc Trăng; và yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Thạch Trưởng Đ đối với phần diện tích bà Danh Thị B đang quản lý là 864,9m2 (đo đạc thực tế 802,2 m2) thuộc thửa 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 864,9m2 (đo đạc thực tế 802,2 m2) trên cho bà Danh Thị B”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 28/9/2020, bà Danh Thị B và bà Lâm Thị Thu S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Lý do kháng cáo bà Danh Thị B và bà Lâm Thị Thu S đưa ra là: Năm 1978, bà Nghét là mẹ của bà Dương Thị K và là bà ngoại của ông Thạch Trưởng Đ cho bà ở nhờ trên phần đất có diện tích 5m x 20m. Khi nhà nước thực hiện chính sách trang trải đất đai, bà Danh Thị B được cấp 05 công đất. Bà Danh Thị B canh tác được vài năm thì bà giao 05 công đất này cho bà Dương Thị K, đổi lại bà Dương Thị K giao cho bà Danh Thị B toàn bộ phần đất phía sau nhà bà Dương Thị K cho bà Danh Thị B. Bà Danh Thị B sử dụng từ đó đến nay. Bà Danh Thị B là thân nhân Liệt sỹ nên được cấp nhà tình nghĩa. Bà Lâm Thị Thu S là hộ nghèo nên cũng được cấp nhà tình thương trên phần đất mà bà Danh Thị B đã cho.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 14/5/2022, bà Danh Thị B chết. Theo hồ sơ kê khai của bà Lâm Thị Thu S, được UBND xã An Hiệp xác nhận thì bà Lâm Thị Thu S là người duy nhất kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Danh Thị B, Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Dương Thị K Thị L, bà Lâm Thị Thu S và anh Thạch Lâm Hải Q thoả thuận như sau:
1. Bà Lâm Thị Thu S (là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Danh Thị B) được quyền sử dụng 02 phần đất cụ thể như sau:
- Phần đất thứ nhất: có diện tích 104,5m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 10,67m + 1,13m + 12,17m; Hướng Tây giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 10,38m + 1,13m + 12,17m; Hướng Nam giáp hẻm đất số đo 4,42m; Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất số 917 có số đo 4,40m.
- Phần đất thứ hai: có diện tích 91,9m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 917, có số đo 12,13m + 7,53m + 3,41m; Hướng Tây giáp khoảng hở giữa 02 nhà; Hướng Nam giáp hẻm đất số đo 4,00m; Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất số 917 có số đo 4,00m.
2. Bà Lâm Thị Thu S (là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Danh Thị B) có trách nhiệm thanh toán cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Thạch Trưởng Đ (gồm các ông bà Dương Thị K Thị L, Thạch Trường N và Thạch Trường Đạt) giá trị quyền sử dụng đất tổng cộng 13.748.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
1. Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Danh Thị B và bà Lâm Thị Thu S làm trong hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận về mặt hình thức.
2. Về việc chấp hành pháp luật: Xét thấy, Thẩm phán chủ toạ phiên toà, các thành viên Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn xét xử phúc thẩm.
3. Về sự thoả thuận của các đương sự: Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự đã tự nguyện thoả thuận được với nhau về việc giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, công nhận những nội dung mà các đương sự đã thoả thuận được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Danh Thị B làm trong hạn luật định. Bà Danh Thị B sinh năm 1942 là người cao tuổi theo Luật Người cao tuổi nên được miễn nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm. Bà Lâm Thị Thu S đã nộp đủ tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm. Do đó, đơn kháng cáo của bà Danh Thị B, bà Lâm Thị Thu S đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 14/5/2022, bà Danh Thị B chết. Theo hồ sơ kê khai của bà Lâm Thị Thu S, được UBND xã An Hiệp xác nhận, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ căn cứ để xác định bà Lâm Thị Thu S là người duy nhất kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Danh Thị B.
[3] Về sự thoả thuận của các đương sự: Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự gồm bà Dương Thị K Thị L, bà Lâm Thị Thu S và anh Thạch Lâm Hải Q đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án như đã nêu ở trên. Xét thấy sự thoả thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thoả thuận này của các đương sự.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lâm Thị Thu S là hộ nghèo nên được miễn nộp.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo luật định.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2020/DS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
[1] Công nhận sự thoả thuận giữa bà Dương Thị K Thị L và bà Lâm Thị Thu S, cụ thể như sau:
[1.1] Bà Lâm Thị Thu S (là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Danh Thị B) được quyền sử dụng 02 phần đất cụ thể như sau:
[1.1.1] Phần đất thứ nhất: có diện tích 104,5m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 10,67m + 1,13m + 12,17m; Hướng Tây giáp phần còn lại của thửa đất số 917 số đo 10,38m + 1,13m + 12,17m; Hướng Nam giáp hẻm đất số đo 4,42m; Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất số 917 có số đo 4,40m.
[1.1.2] Phần đất thứ hai: có diện tích 91,9m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A,huyện C, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận như sau: Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa đất số 917, có số đo 12,13m + 7,53m + 3,41m; Hướng Tây giáp khoảng hở giữa 02 nhà; Hướng Nam giáp hẻm đất số đo 4,00m; Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất số 917 có số đo 4,00m.
[1.2] Bà Lâm Thị Thu S có trách nhiệm thanh toán cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Thạch Trưởng Đ (gồm các ông bà Dương Thị K Thị L, Thạch Trường N và Thạch Trường Đạt) giá trị quyền sử dụng đất được nêu tại mục [1.1] với số tiền tổng cộng là 13.748.000 (mười ba triệu bảy trăm bốn mươi tám ngàn) đồng.
[1.3] Việc giao nhận tiền được thực hiện tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[1.4] Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả lãi cho người được thi hành án với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành án.
[1.5] Bà Lâm Thị Thu S có quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
[2] Về án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lâm Thị Thu S không phải nộp.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo luật định.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 365/2022/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất và huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 365/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về