TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 36/2023/DS-ST NGÀY 26/04/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE, TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM
Trong ngày 26 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 235/2022/TLST-DS ngày 11 tháng 10 năm 2022 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 3 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê im T, sinh năm 2002;
Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Lê Tấn Đ, sinh năm 1995; Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1978;
Địa chỉ: ấp T, xã P, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông M: Ông Lê Văn C, sinh năm 1959; Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
Ông Đ, ông M, ông C có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự, vụ án có nội dung như sau:
Người đại diện theo ủy quyền của N đơn – ông Lê Tấn Đ trình bày: Vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 06-01-2021, bà Lê Kim T điều khi n xe máy hiệu Honda Vairo bi n số 62M1-X lưu thông trên đường tỉnh 826C, đoạn thuộc ấp Tân Thanh B, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Đang lưu thông đúng phần đường quy định thì va chạm với xe máy do ông Nguyễn Văn M điều khi n, chạy ngược chiều, rẽ ngang gấp, không ra tín hiệu và chạy với tốc độ cao. Vụ va chạm dẫn đến xe máy của bà T bị hư hỏng, bà T bị thương nằm viện kkhoảng 2 tuần tại Bệnh viện 115. Vụ tai nạn gây thiệt hại về sức khỏe và tài sản của bà T, do đó bà T yêu cầu ông M có trách nhiệm bồi thường các kkhoản sau:
- Chi phí sửa xe 24.000.000 đồng, có hóa đơn đầy đủ.
- Chi phí mổ xương hàm: 12.000.000 đồng, có hóa đơn.
- Chi phí thuê xe cấp cứu: 1.000.000 đồng, không có hóa đơn. Đây là chi phí thuê xe 2 chiều đi-về, mỗi chiều là 500.000 đồng.
- Chi phí đi lại và điều trị tại Bệnh viện 115 là 5.000.000 đồng. Bao gồm chi phí thuê xe taxi đi tái khám 02 lần, không có hóa đơn, kkhoảng 2.000.000 đồng; và chi phí điều trị, tái khám tại Bệnh viện là 3.000.000 đồng.
- Thu nhập 02 tháng tiền lương bị mất là 16.000.000 đồng. Thời điểm bị tai nạn bà T đang làm thời vụ ở Công ty, lương mỗi tháng là 8.000.000 đồng, bao gồm cả tăng ca. Đ điều trị bệnh bà T nghỉ việc gần 03 tháng nhưng chỉ yêu cầu ông M trả 02 tháng tiền lương là 16.000.000 đồng.
- Chi phí 01 tháng cho người nuôi bà T là 7.000.000 đồng. Người nuôi bệnh là chị ruột Lê Thị im N. Bà N phải xin nghỉ việc tại Công ty đ nuôi T bệnh 01 tháng, lương bà N không rõ, số tiền 7.000.000 đồng là gia đình tự tính đ trả công cho bà N.
- Thiệt hại tổn thất tinh thần là 20.000.000 đồng.
- Tư trang bị mất là một chiếc bông tai 4,7 phân vàng 18k là 1.500.000 đồng. Sau khi va chạm xe, vào đến Bệnh viện Cần Giuộc bà T phát hiện mất bông tai.
- Chi phí xuống Công an tỉnh Long An giám định thương tật là 500.000 đồng. Ông Đ đại diện bà T rút lại yêu cầu khởi kiện này.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn – ông Lê Văn C trình bày: Ông M không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông M chạy xe đúng quy định, ông M có xin đường đ rẽ trái nhưng bà T chạy tốc độ cao không thắng xe kịp. Bà T có nói với gia đình ông M, cụ th là bà Lan – vợ ông M là bà T không bị thương nhiều, nhưng nay bà T lại yêu cầu bồi thường nhiều như vậy, ông M không đồng ý. Sau khi va chạm với bà T, ông M cũng bị thương, có điều trị tại bệnh viện 115, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Biên bản ghi lời khai ngày 21-4-2023 - bà Lê Kim T trình bày: Vào kkhoảng 20 giờ 45 ngày 06-01-2021, bà điều khi n xe máy bi n số 62M1-X đi từ Ủy ban nhân dân xã Phước Lại về hướng trường Nguyễn Thị Một (hướng Ủy ban nhân dân xã Long Hậu) thì va chạm với xe máy do ông Nguyễn Văn M điều khi n. Bà đang điều khi n xe máy sát phần lề bên phải phần đường của mình thì bất ngờ ông M cho xe rẽ sang phần đường của bà mà không bật đèn tín hiệu, quá bất ngờ không xử lý kịp nên dẫn đến va chạm. Từ khi va chạm đến nay, phía ông M không đến thăm hỏi hay thương lượng gì.
Tại thời điểm va chạm, bà chỉ vừa xin việc ở Công ty Avery thuộc Khu công nghiệp Long Hậu, lương thử việc kkhoảng 4,5 triệu đồng/tháng, thời gian thử việc là 06 tháng. Sau khi được nhận việc, bà làm được kkhoảng 02 tuần thì xảy ra tai nạn. Do thời gian nghỉ nhiều nên bị Công ty sa thải. Bà không có giấy tờ chứng minh công việc thời điểm đó, bà chỉ kí thỏa thuận làm thời vụ, giấy thỏa thuận do Công ty giữ, bà không có giữ.
Tại Biên bản ghi lời khai ngày 21-4-2023 - bà Lê Thị Kim N trình bày: Bà là chị ruột của Lê im T. Thời điểm T xảy ra tai nạn, bà trực tiếp chăm sóc cho T. Thời điểm đó, bà nghỉ thai sản, đang hưởng chế độ thai sản. Bà trực tiếp chăm sóc T ở Bệnh viện 115. Sau khi về nhà, bà chăm T kkhoảng gần 01 tháng. Tuy nghỉ thai sản nhưng bà vẫn nhận làm hàng gia công thêm ở Công ty, với lương một tháng kkhoảng gần 06 triệu đồng. Thời điểm chăm sóc cho T, bà vẫn nhận lương gia công nhưng nhờ người khác làm và bà thanh toán lại số lương đó cho người gia công giùm, theo bà nhớ là kkhoảng 7,3 triệu đồng. Hiện bà không còn giữ Hợp đồng cũng như chứng từ đối với việc gia công này.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Lê Tấn Đ xác định rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với chi phí xuống Công an tỉnh Long An giám định tỷ lệ thương tật là 500.000 đồng. Đối với chi phí đi lại và điều trị, tái khám tại Bệnh viện 115 là 5.000.000 đồng, nguyên đơn không có chứng từ. Tiền lương của bà T và người nuôi bệnh bao gồm cả lương chính thức và tăng ca. Thời điểm xảy ra tai nạn, bà T đang trong giai đoạn thử việc, chỉ thỏa thuận làm thời vụ, không có ký hợp đồng, nên không có tài liệu cung cấp cho Tòa án về mức lương thỏa thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn – ông Lê Văn C xác định bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên nhân dẫn đến tai nạn là do bà T cho xe điều khi n tốc độ cao nên không tránh kịp xe ông M. Về các chi phí nguyên đơn đưa ra, chi phí sửa xe là không phù hợp; chi phí đi về điều trị 1.000.000 đồng là phù hợp với thực tế. Về tiền mất thu nhập của bà T là không phù hợp, vì thông thường làm thời vụ thì không có tăng ca nên mức lương 8.000.000 đồng/ tháng là không có cơ sở.
Bị đơn – ông Nguyễn Văn M trình bày: Sau khi đi làm về gần đến nhà, ông cho xe rẽ trái sang đường thì va chạm với xe của bà T, xe bà T đụng vào đuôi xe của ông. hi cho xe sang đường, ông có bật đèn tín hiệu xin qua đường, còn trên đường lúc đó có xe ngược chiều hay không thì ông không nhớ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giuộc phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung:
- Trong quá trình hòa giải, cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với chi phí đi giám định tỷ lệ thương tích là 500.000 đồng. Việc rút đơn là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn.
- Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe của nguyên đơn thấy rằng:
Vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 06-01-2021, bà Lê im T đang điều khi n xe máy hiệu Honda Vairo bi n số 62M1-X lưu thông trên đường tỉnh 826C, đoạn thuộc ấp Tân Thanh B, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thì va chạm với xe môtô do ông Nguyễn Văn M điều khi n. Vụ va chạm dẫn đến 02 xe bị hư hỏng và 02 người bị thương. Theo Thông báo kết quả điều tra, xác minh, giải quyết vụ tai nạn giao thông ngày 20-4-2021 của Công an huyện Cần Giuộc xác định nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn là do ông Nguyễn Văn M điều khi n xe môtô 62M3-X chuy n hướng không nhường đường cho xe ngược chiều. Theo ết luận giám định pháp y về thương tích ngày 20-4-2021 xác định tỷ lệ tổn thương cơ th của bà T do thương tích gây nên là 21%. Qua đó, có đủ cơ sở xác định lỗi dẫn đến tai nạn là do ông Nguyễn Văn M. Căn cứ các điều 584, 585, 589, 590 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 02 ngày 06-9-2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xác định ông M có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại về sức khỏe, tài sản của bà T. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T đối với những kkhoản phù hợp với thực tế và chứng từ, cụ th :
1. Đối với yêu cầu bồi thường chi phí mổ xoang hàm là 12.000.000 đồng. Căn cứ các hóa đơn ngày 19-01-2021 thì tổng chi phí điều trị là 11.246.878 đồng nên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T đối với kkhoản có hóa đơn này.
2. Đối với chi phí thuê phương tiện đi cấp cứu và về là 1.000.000 đồng. Căn cứ Giấy ra viện của Bệnh viện 115, có cơ sở xác định bà T có nhập viện và ra viện. Chi phí đi lại này là phù hợp nên chấp nhận.
3. Đối với chi phí đi lại và tái khám, điều trị tại Bệnh viện 115 là 5.000.000 đồng. Phần chi phí này không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận.
4. Đối với yêu cầu bồi thường thu nhập bị mất của bà T và người nuôi bệnh: Nguyên đơn không cung cấp được tài liệu chứng minh công việc và mức lương nên căn cứ hướng dẫn tại Nghị quyết 02 ngày 06-9-2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, áp dụng mức lương tối thi u vùng là 3.920.000 đồng. Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu, đối với thu nhập của bà T là 02 tháng x 3.920.000 đồng; thu nhập của người nuôi bệnh là 01 tháng x 3.920.000 đồng.
5. Đối với yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần: Thấy rằng tình trạng thương tích ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý, thẩm mỹ của bà T. Mức bồi thường 20.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự, nên đề nghị chấp nhận.
6. Đối với yêu cầu bồi thường tư trang bị mất, yêu cầu này không có cơ sở nên đề nghị không chấp nhận.
Các đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của đương sự và nội dung vụ án, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xâm phạm” theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn hiện cư trú tại ấp Tân Thanh B, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn – bà Lê im T khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn M phải bồi thường thiệt hại cho bà Lê im T do sức khỏe và tài sản bị xâm phạm với tổng số tiền là 87.000.000 đồng gồm: chi phí sửa xe 24.000.000 đồng; chi phí mổ xương hàm là 12.000.000 đồng; chi phí thuê xe cấp cứu là 1.000.000 đồng; chi phí đi lại và điều trị tại bệnh viện (tái khám) là 5.000.000 đồng; thu nhập bị mất 02 tháng tiền lương là 16.000.000 đồng; chi phí một tháng cho người nuôi bệnh là 7.000.000 đồng; tổn thất tinh thần là 20.000.000 đồng; tư trang bị mất là một chiếc bông tai 4,7 phân vàng 18 , trị giá 1.500.000 đồng và chi phí đi giám định là 500.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã tự nguyện rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với chi phí đi giám định tỷ lệ thương tật là 500.000 đồng. Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của nguyên đơn.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:
Căn cứ vào các biên bản làm việc của Công an huyện Cần Giuộc cũng như lời trình bày của các đương sự, có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 06-01-2021, bà Lê im T điều khi n xe máy hiệu Honda Vairo bi n số 62M1-X lưu thông trên đường tỉnh 826C từ hướng Bến phà Tân Thanh về xã Long Hậu, đến đoạn thuộc ấp Tân Thanh B, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thì va chạm với xe máy bi n số 62M3-X do ông Nguyễn Văn M điều khi n lưu thông theo hướng ngược lại. Vụ va chạm dẫn đến hư hỏng 02 xe máy, làm bị thương 02 người. Theo Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ ngày 06-01-2021, sau khi xảy ra tai nạn, hai xe môtô đều nằm ở phần đường bên phải hướng từ bến phà Tân Thanh về xã Long Hậu. Theo Thông báo kết quả điều tra, xác minh, giải quyết vụ tai nạn giao thông ngày 20-4-2021 của Công an huyện Cần Giuộc xác định nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn là do ông Nguyễn Văn M điều khi n xe môtô 62M3-X chuy n hướng không nhường đường cho xe ngược chiều.
Tại Điều 15 của Luật Giao thông đường bộ quy định:
1. Khi muốn chuyển hướng, người điều khiển phương tiện phải giảm tốc độ và có tín hiệu báo hướng rẽ.
2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác.
Ông M cho xe chuy n hướng đã không đảm bảo các điều kiện theo quy định và dẫn đến va chạm với xe của bà T là xe đang đi ngược chiều với xe của ông M. Hành vi nêu trên của ông M đã vi phạm quy định tại Điều 15 Luật Giao thông đường bộ.
Qua đó, có đủ cơ sở xác định vụ tai nạn giao thông giữa ông M và bà T xảy ra vào ngày 06-01-2021 hoàn toàn do lỗi của ông M. Vụ va chạm đã gây thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho bà Lê im T. Từ đó, phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của ông M đối với những thiệt hại của bà T.
Thấy rằng, sau khi xảy ra tai nạn, bà T bị thương ở vùng mặt và chiếc xe Vario do bà T điều khi n bị hư hỏng.
Theo Giấy ra viện ngày 19-01-2021 của Bệnh viện 115 xác định bà Lê im T nhập viện: vào lúc 23 giờ 13 phút ngày 06-01-2021, ra viện: vào lúc 11 giờ 00 ngày 19-01-2021. Chẩn đoán: Vỡ xoang hàm gò má (P) – vết thương trên mi mắt (P) – Vỡ thành ngoài và dưới hốc mắt (P). Phương pháp điều trị: TMH: phẫu thuật nội soi mở xoang hàm (P); Mắt: thuốc, điều trị bảo tồn vỡ thành ngoài và dưới hốc mắt (P). Theo các phiếu thu tiền, hóa đơn bán hàng ngày 19- 01-2021, tổng chi phí điều trị đến khi ra viện của bà T là 11.425.348 đồng. Do đó, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu bồi thường chi phí mổ xương hàm, ông M có trách nhiệm bồi thường là 11.425.348 đồng.
Đối với yêu cầu bồi thường chi phí thuê xe cấp cứu và đưa về sau điều trị là 1.000.000 đồng. Chi phí này không có hóa đơn, tuy nhiên căn cứ giấy ra viện ngày 19-01-2021 của Bệnh viện 115, thấy rằng có thời gian nhập viện và xuất viện cụ th cũng như tình trạng bệnh của bà T. Vì vậy chi phí này là hợp lý, yêu cầu này được chấp nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường chi phí tái khám và chi phí đi lại tái khám tại Bệnh viện là 5.000.000 đồng: Nguyên đơn xác định các chi phí này không có hóa đơn nên không có cơ sở xác định số lần đi tái khám và các chi phí phát sinh. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu bồi thường chi phí sửa xe máy hiệu Honda Vario bi n số 62M1-X là 24.000.000 đồng. Thấy rằng, sau khi xảy ra tai nạn, xe máy Vario bị hư hỏng và được phía bà T đưa đi sửa chữa tại Công ty TNHH Phát Thịnh – Chi nhánh Cần Giuộc. Theo Phiếu sửa chữa của Công ty TNHH Phát Thịnh – Chi nhánh Cần Giuộc, tổng chi phí sửa chữa xe trên là 21.814.000 đồng, nên có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu của bà T, ông M phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà T là 21.814.000 đồng.
Đối với yêu cầu bồi thường thu nhập bị mất của bà T, bà T yêu cầu ông M bồi thường 16.000.000 đồng, tương ứng với 02 tháng lương là thời gian bà T chữa và dưỡng bệnh không đi làm được. Bà T cho rằng trong thời gian trước khi xảy ra tai nạn, bà T đi làm thời vụ tại Công ty Avery thuộc hu Công nghiệp Long Hậu với mức lương thử việc thỏa thuận là 4.500.000 đồng/tháng. Tuy nhiên bà vừa đi làm ở Công ty được 02 tuần thì xảy ra tai nạn, bà cũng không còn lưu giữ thỏa thuận lương thử việc với công ty. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu bồi thường với mức lương 8.000.000 đồng/tháng. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06-9-2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong trường hợp không có cơ sở xác định mức lương cụ th theo hướng dẫn thì áp dụng mức lương tối thi u vùng. Căn cứ Nghị định 90/2019/NĐ-CP ngày 15-11-2019, huyện Cần Giuộc thuộc vùng 02 với mức lương tối thi u vùng năm 2021 là 3.920.000 đồng/tháng. Với tình trạng thương tích của bà T thì việc điều trị, dưỡng bệnh trong vòng hai tháng là phù hợp. Cho nên có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu của bà T, ông M phải có trách nhiệm bồi thường cho bà T số tiền là 2*3.920.000 đồng = 7.840.000 đồng.
Đối với yêu cầu bồi thường chi phí cho 01 người nuôi bệnh trong thời gian 01 tháng. Thấy rằng, thời gian bà T điều trị bệnh tại Bệnh viện 115 là 13 ngày. Ngoài ra, thời gian dưỡng bệnh tại nhà cũng cần người chăm sóc. Bà T cho rằng, người nuôi bệnh bà T phải nghỉ việc đ chăm sóc bà T trong vòng 1 tháng, và yêu cầu bồi thường là 7.000.000 đồng. Theo bà N là người chăm sóc bà T, trong thời gian này bà đang nghỉ thai sản và hưởng chế độ thai sản, tuy nhiên bà có nhận gia công thêm tại Công ty với mức lương kkhoảng 6.000.000 đồng/tháng, nhưng bà không cung cấp được tài liệu chứng minh. Cho nên theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP thì mức lương được xác định theo mức lương tối thi u vùng là 3.920.000 đồng. Ông M phải có trách nhiệm bồi thường cho bà T số tiền là 3.920.000 đồng.
Đối với yêu cầu bồi thường về tổn thất tinh thần, thấy rằng vụ va chạm đã dẫn đến những thương tích trên vùng mặt của bà T. Bà T là phụ nữ, còn trẻ tuổi, chưa có gia đình, việc bị thương tích ở vùng mặt đã gây ra những tổn thất tinh thần không hề nhỏ. Do đó, việc bà T yêu cầu bồi thường với số tiền 20.000.000 đồng là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, có cơ sở chấp nhận.
Về yêu cầu bồi thường số tiền 1.500.000 đồng đối với tư trang bị mất, thấy rằng không có căn cứ xác định bà T bị mất 01 chiếc bông vàng 18k có trọng lượng 4,7 phân từ vụ va chạm, do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của bà T.
Đối với hóa đơn bán hàng 190.000 đồng ngày 09-4-2021 của bà T, thấy rằng hóa đơn này không nêu lý do thu, đồng thời đương sự không cung cấp được giải trình về hóa đơn này nên không có cơ sở xem xét.
Như vậy tổng số tiền mà ông M phải có trách nhiệm bồi thường cho bà T là 11.425.348 đồng + 1.000.000 đồng + 21.814.000 đồng + 7.840.000 đồng + 3.920.000 đồng + 20.000.000 đồng = 65.999.348 đồng.
[3] Về án phí: Ông Nguyễn Văn M phải chịu án phí đối với phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê im T được chấp nhận, cụ th là 65.999.348 đồng *5% = 3.299.967 đồng.
Bà Lê im T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản không được chấp nhận. Phần yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản không được chấp nhận có giá trị là [(24.000.000 đồng -21.814.000 đồng) + 1.500.000 đồng] =3.686.000 đồng, dưới 6.000.000 đồng nên theo quy định của Nghị quyết số 326, bà T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 584, 585, 589, 590 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của bà Lê im T về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn M bồi thường chi phí đi giám định tỷ lệ thương tích là 500.000 đồng.
2. hông chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê im T về việc buộc ông Nguyễn Văn M bồi thường giá trị chiếc bông tai bị mất là 1.500.000 đồng, chi phí sửa xe là 2.186.000 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê im T về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xâm phạm” đối với ông Nguyễn Văn M.
Ông Nguyễn Văn M có trách nhiệm bồi thường cho bà Lê im T tổng số tiền là 65.999.348 đồng bao gồm 11.425.348 đồng chi phí điều trị; 1.000.000 đồng chi phí đi lại; 21.814.000 đồng chi phí sửa xe; 7.840.000 đồng thu nhập của bà T bị mất; 3.920.000 đồng thu nhập của người nuôi bệnh; và 20.000.000 đồng tiền bồi thường tổn thất tinh thần.
4. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu kkhoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
5. Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn M phải chịu 3.299.967 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Lê im T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 637.500 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0001071 ngày 08-10-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, hoàn lại cho bà T 337.500 đồng.
6. Về quyền kháng cáo: Bản án sơ thẩm, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày k từ ngày tuyên án.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án 36/2023/DS-ST về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tài sản bị xâm phạm
Số hiệu: | 36/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về