Bản án 36/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P ,TỈNH N

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

 Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2020/QĐXXST-HS ngày 21tháng 4 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN VĂN TR, sinh ngày 20/5/1988 tại N. Nơi ĐKNKTT:

Thôn L 1, xã A, huyện Ph, tỉnh N; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hoá:

8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M và bà Bùi Thị X; Vợ: Dương Thị T và 02 con; Tiền án:

- Ngày 08/8/2014, Tòa án nhân dân thành phố P xét xử bị cáo 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “chống người thi hành công vụ”.

- Ngày 29/6/2016, Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “cướp giật tài sản” theo điểm d, g khoản 2 điều 136 BLHS, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2019.

Tiền sự: không.

2. NGUYỄN VĂN V, sinh ngày 21/11/1990 tại N. Nơi ĐKNKTT:

Thôn L 1, xã A, huyện Ph, tỉnh N; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá:

5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam;

con ông Nguyễn Văn M và bà Bùi Thị X;; Tiền án:

- Ngày 27/7/2007, Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “cướp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/10/2008.

- Ngày 14/4/2011, Tòa án nhân dân huyện Ph xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù về tội “cướp giật tài sản”. Bị cáo kháng cáo, ngày 08/6/2011, Tòa án nhân dân tỉnh N xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/6/2013.

- Ngày 29/6/2016, Tòa án nhân dân thànhphố P xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “cướp giật tài sản” theo điểm c, d, g khoản 2 điều 136 BLHS, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/9/2019.

Tiền sự: không.

Các bị cáo đều tạm giam, trong một vụ án khác. Hiện các bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ- Tỉnh L. Đ. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Bà Lưu Mai Th, sinh năm: 1961, địa chỉ: tổ 4 phường X, thành phố Y, tỉnh K (có mặt).

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Phan Ph, sinh năm: 1964, địa chỉ: khu phố K, phường Ph, thành phố P, tỉnh N (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 18/12/2019, NGUYỄN VĂN V, điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, màu đen xám, BKS: 85D1 – 491.xx chở NGUYỄN VĂN TR ngồi phía sau, đi trên tuyến đường 21/8 hướng từ ngã 3 L. B. ra ngã 5 P.H để đi tỉnh L. Khi đến ngã 5 P.H., V phát hiện phía trước cùng chiều có bà Nguyễn Phan Ph điều khiển xe mô tô BKS: 85F1-058.xx, chở bà Lưu Mai Th ngồi phía sau, bà Th đang đeo một túi xách chéo vai bằng da, màu đen, kích thước (20x30)cm, túi xách nằm bên hông phải. Thấy vậy, V nảy sinh ý định cướp giật túi xách của bà Th và nói với Tr: “Có người đeo túi xách kìa”, Tr nghe và hiểu là V muốn rủ mình giật túi xách của bà Th. Tr đồng ý và bảo V chạy xe áp sát để Tr giật túi xách.

Khi đến gần nhà xe Đ, trên đường L.D., thuộc khu phố 1, phường Ph., V điều khiển xe mô tô chạy vượt lên áp sát bên hông phải bà Th, Tr ngồi sau dùng tay trái giật lấy giỏ xách bà Th đang đeo, còn V tăng ga điều khiển xe tẩu thoát theo đường P hướng lên Đ. Đi được một đoạn, cả hai dừng xe kiểm tra thấy trong túi có 4.600.000 đồng. Tr và V chia đôi mỗi người lấy 2.300.000 đồng. Sau đó, Tr ném túi xách trên xuống phía dưới bên phải cầu vượt T, thuộc khu phố K phường Đ rồi cả hai chạy lên huyện Đ, tỉnh L.Đ. Số tiền chiếm đoạt được, cả hai tiêu xài cá nhân hết. Tại Cơ quan điều tra, Tr và V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bà Th đã trình báo tại Công an phường Ph hồi 14h ngày 18/12/2019.

Kết luận định giá tài sản số: 04/KLTS ngày 15/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố P xác định: “01 túi xách nữ, kích thước khoảng (20x30) cm, chất liệu bằng da, màu đen, có dây đeo, có giá trị là 150.000 đồng”. Như vậy, tổng giá trị tài sản Tr và V chiếm đoạt là 4.750.000 đồng.

Cáo trạng số 22/QĐ-VKSPR ngày 28/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pđã truy tố các bị cáo NGUYỄN VĂN TR và NGUYỄN VĂN V về “tội cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm và tái phạm nguy hiểm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d, i, Khoản 2, Điều 171 Bộ luật hình sự Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mỗi bị cáo 05 năm đến 06 năm tù về “tội cướp giật tài sản” và các bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho người bị hại. Các bị cáo và người bị hại không tham gia tranh luận. Khi nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] NGUYỄN VĂN TR và NGUYỄN VĂN V đã có tiền án về tội rất nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích. Ngày 18/12/2019 , trên đường L. D. thuộc khu phố 1 phường Ph, thành phố P, NGUYỄN VĂN V điều khiển xe mô tô BKS: 85D1 – 491.90 chở NGUYỄN VĂN TR thực hiện hành vi cướp giật 01 một túi xách của bà Lưu Mai Th (trị giá 150.000 đồng) bên trong túi xách có 4.600.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Tr và V chiếm đoạt là 4.750.000 đồng. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cũng như các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, cáo trạng số 22/QĐ-VKSPR ngày 28/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố các bị cáo NGUYỄN VĂN TR và NGUYỄN VĂN V về “tội cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “tái phạm nguy hiểm”, quy định tại Điểm d, i, Khoản 2, Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi của Tr và V là rất nguy hiểm, không những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, đã tác động người thân bồi thường một phần cho người bị hại, người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Các tình tiết giảm nhẹ này quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Vật chứng vụ án:

- Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 01 túi xách nữ, kích thước khoảng (20x30) cm, chất liệu bằng da, màu đen, có dây đeo. Đây là tài sản của bà Lưu Mai Th nên Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho bà Th là có căn cứ.

- Đối với xe mô tô hiệu Sirius, màu xám đen, BKS: 85D1 – 491.xx, sau khi sử dụng làm phương tiện cướp giật tài sản của bà Lưu Mai Thuận, Tr và V tiếp tục sử dụng xe mô tô trên cướp giật tài sản tại huyện Đ, tỉnh LĐ. Hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã khởi tố và tạm giam Tr với V và đang tạm giữ xe mô tô trên để điều tra xử lý.

[5] Về trách nhiệm dân sự: NGUYỄN VĂN TR và NGUYỄN VĂN V đã tác động người thân bồi thường cho bà Lưu Mai Th 1.000.000 đồng. Bà Lưu Mai Th yêu cầu các bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền 3.750.000 đồng, các bị cáo đồng ý bồi thường số tiền trên từ giai đoạn điều tra và tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử buộc Tr và V có nghiã vụ bồi thường cho bà Lưu Mai Th 3.750.000 đồng, chia phần mỗi bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bà Th 1.875.000 đồng.

Về án phí: mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo NGUYỄN VĂN TR và bị cáo NGUYỄN VĂN V phạm “tội cướp giật tài sản”.

n cứ vào: Điểm d, i khoản 2 điều 171, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo NGUYỄN VĂN TR 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

n cứ vào: Điểm d, i khoản 2 điều 171, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo NGUYỄN VĂN V 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự:

n cứ vào: Điều 584, 586, 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo NGUYỄN VĂN TR và bị cáo NGUYỄN VĂN V mỗi người có nghĩa vụ bồi thường cho bà Lưu Mai Th 3.750.000 (ba triệu bảy trăm năm mươi ngàn) đồng, chia phần mỗi bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bà Thuận 1.875.000 (một triệu tám trăm bảy mươi lăm ngàn) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại điều 357, điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt các bị cáo, người bị hại. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 36/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;