Bản án 352/2018/HC-PT ngày 30/08/2018 về khiếu kiện quyết định thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 352/2018/HC-PT NGÀY 30/08/2018 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ VÀ CƯỠNG CHẾ THU HỒI ĐẤT

Ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 425/2017/TLPT-HC ngày 31 tháng 10 năm 2017 về việc “Khiếu kiện Quyết định thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2017/HC-ST ngày 12 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 196/2018/QĐ-PT ngày 02 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Trương Văn L, sinh năm 1940.

Địa chỉ: khu phố 4, phường Ph, thành phố Phl, tỉnh Ninh Thuận.

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Lê Cẩm Q, sinh năm 1975. (có mặt)

Địa chỉ: số 14, đường 33, phường B, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bị kiện:

1. Ủy ban nhân dân thành phố Phl, tỉnh Ninh Thuận, (vắng mặt)

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phl, tỉnh Ninh Thuận, (vắng mặt)

- Người kháng cáo: Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Lê Cẩm Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện ông Trương Văn L và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Lê Cẩm Q trình bày:

Ngày 02/8/2013, Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) thành phố Phl ban hành các Quyết định: Quyết định số 1898/QĐ-UBND thu hồi 185m đất của ông Trương Văn L thuộc thửa đất số 9b, tờ bản đồ địa chính số 2 để bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện quy hoạch Khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl và Quyết định số 1929/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trương Văn L với tổng số tiền bồi thường hỗ trợ là 181.286.272 đồng.

Năm 2012, ông Trương Văn L nhận được Quyết định số 1898/QĐ-UBND và Quyết định 1929/QĐ-UBND cùng ngày 02/8/2013 về việc bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất. Tại Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 Ủy ban áp giá bồi thường thu hồi đất là 70.000đ/m2 cho đất có nhà ở tại đô thị và không hỗ trợ tái định cư theo quy định của pháp luật. Không đồng ý với Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 ông L đã làm đơn khiếu nại đến UBND thành phố Phl nhưng chưa được UBND thành phố Phl giải quyết.

Ngày 15/12/2015, UBND thành phố Phl tiếp tục ban hành Quyết định số 2431/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung vật kiến trúc cho hộ ông Trương Văn L, với tổng số tiền 39.515.536 đồng.

Ngày 28/4/2017, Chủ tịch UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 1455/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Trương Văn L trong khi ông chưa được giải quyết khiếu nại, chưa nhận tiền bồi thường và chưa được nhận hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông, vi phạm pháp luật được quy định tại các Điều 30, khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 5 Điều 71 và Điều 83 của Luật đất đai năm 2013; Điều 13 Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường và các Điều 19, Điều 20, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Vì vậy, ông Trương Văn L yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Hủy Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Phl về việc cưỡng chế thu hồi đất;

2. Hủy Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/08/2013 của UBND thành phố Phl về việc thu hồi đất do hộ ông Trương Văn L sử dụng tại phường Thanh Sơn để bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện dự án quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (khu K1);

3. Hủy Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND thành phố Phl về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Trương Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (khu K1);

4. Hủy Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 của UBND thành phố Phl về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung vật kiến trúc cho hộ ông Trương Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (khu K1);

5. Buộc UBND thành phố Phl bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị của ông đúng quy định pháp luật của thời điểm 2017.

Người đại diện theo ủy quyền của UBND và Chủ tịch UBND thành phố Phl trình bày:

Thứ nhất, căn cứ Điều 60 Quyết định 23 80/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; điểm a khoản 1 Điều 28 Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 13/8/2009 về áp dụng thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất đối với dự án đầu tư; Quyết định số 1189/QĐ-UBND ngày 21/4/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Phl về việc thành lập tổ kiểm kê bắt buộc đối với các hộ gia đình cá nhân có đất bị thu hồi để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1); Quyết định số 3276/QĐ-UBND ngày 24/6/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Phl về việc kiểm kê bắt buộc đối với các hộ gia đình ông Trương Văn L có đất bị thu hồi để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1).

Thực hiện các Thông báo của UBND tỉnh Ninh Thuận: Thông báo số 43/TB-UBND ngày 14/6/2010 về việc thu hồi đất bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện Quy hoạch Khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1); Thông báo số 53/TB-UBND ngày 01/7/2010 về việc thu hồi đất bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện Quy hoạch Khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1); Thông báo số 21/TB-UBND ngày 14/3/2011 về việc thu hồi đất để bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1).

Xét đề nghị của Phòng Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 1942/TTr-TNMT ngày 29/7/2013, UBND thành phố Phl đã ban hành Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 về việc thu hồi đất của hộ ông Trương Văn L sử dụng tại phường Thanh Sơn để bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (Khu K1), (Thu hồi thửa đất số 9b, tờ bản đồ địa chính số 2, diện tích 185m2 phường Thanh Sơn).

Đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên, việc UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 là phù hợp theo quy định pháp luật.

Thứ hai, căn cứ điểm b khoản 4 Điều 58, Điều 63 Quyết định 2380/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận; Quyết định số 33/QĐ-UBND ngày 23/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận quy định giá đất ở trung bình tại khu vực thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl là 882.000đồng/m2; Các bảng giá nhà ở công trình, vật kiến trúc giá hoa màu tại thời điểm 2012 cụ thể là tại các Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND ngày 15/8/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định về giá vật kiến trúc, Quyết định số 204/QĐ-UBND ngày 04/3/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định về giá hoa màu; Các điều khoản về hỗ trợ khác của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định tại Quyết định số 2380/2010/QĐ-UBND ngày 21/12/2010.

Xét đề nghị của Phòng Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 1943/TTr-TNMT ngày 29/7/2013, UBND thành phố ban hành Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 về việc phê duyệt phương án chi tiết về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố. Đồng thời cùng ngày, UBND thành phố ban hành Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 về việc bồi thường hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Trương Văn L khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 181.286.272 đồng (trong đó bồi thường về đất là 12.950.000 đồng; bồi thường vật kiến trúc 108.964.272 đồng các khoản hỗ trợ là 56.228.400 đồng, bồi thường hoa màu 3.413.000 đồng).

Đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên, việc UBND thành phố ban hành Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 và Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 là phù hợp theo quy định pháp luật.

Thứ ba, căn cứ điểm d khoản 3 Điều 69; khoản 2 Điều 71 Luật đất đai 2013. UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 3276/QĐ-UBND ngày 24/6/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phl về việc kiểm kê bắt buộc đối với hộ gia đình ông Trương Văn L có đất bị thu hồi để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1).

Sau khi ban hành Quyết định thu hồi và triển khai quyết định đến hộ ông Trương Văn L, Trung tâm phát triển quỹ đất Ninh Thuận phối hợp với các đơn vị có liên quan, UBND phường Thanh Sơn, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam phường Thanh Sơn đã tiến hành mời hộ ông Trương Văn L đến để vận động nhiều lần nhưng hộ ông Trương Văn L không đồng ý bàn giao mặt bằng hoặc vắng mặt không lý do.

Trên cơ sở đề nghị của Trung tâm phát triển quỹ đất Ninh Thuận tại Văn bản số 610/TTPTQĐ-BTGMB ngày 17/4/2017 về việc đề nghị cưỡng chế các hộ để thực hiện quyết định thu hồi đất tại dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (Khu K1); Sau khi phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố thẩm định hồ sơ, quá trình thu hồi bồi thường, quá trình mời vận động của hộ ông Trương Văn L và Báo cáo số 37/BC-UBND ngày 11/4/2017 của UBND phường Thanh Sơn về việc vận động hộ ông Trương Văn L bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố (Khu K1), đã có đề nghị tại Tờ trình số 540/TTr-TNMT ngày 25/4/2017, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 1455/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Trương Văn L vào ngày 28/4/2017.

Như vậy, Chủ tịch UBND thành phố đã ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo đúng trình tự thủ tục tại các Điều 69, Điều 71 Luật đất đai 2013.

Đối chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất, UBND thành phố, Chủ tịch UBND thành phố đã ban hành các Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015; Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 là đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn L.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2017/HC-ST ngày 12 tháng 9 năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 164; khoản 2 Điều 165; khoản 1 Điều 143; điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 206, Điều 213 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ Điều 38, Điều 40, Điều 44 Luật đất đai 2003; Điều 71 Luật đất 2013; Điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ; Thông tư 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Căn cứ Điều 28, Điều 33 Luật Khiếu nại 2011;

Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn L về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Phl về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông Trương Văn L và buộc UBND Thành phố Phl bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị theo đúng quy định pháp luật tại thời điểm 2017.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn L đề nghị Tòa án hủy các quyết định:

- Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND thành phố Phl về việc thu hồi đất do hộ ông Trương Văn L sử dụng tại phường Thanh Sơn để bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thanh phố Phl (Khu K1);

- Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND thành phố Phl về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Trương Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (Khu K1);

- Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 của UBND thành phố Phl về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung vật kiến trúc cho hộ ông Trương Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc TP Phl (Khu K1).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 21/9/2017, đại diện người khởi kiện ông Lê Cẩm Q có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Cẩm Q vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng hủy Quyết định thu hồi đất số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định bồi thường bổ sung vật kiến trúc số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 đều của UBND thành phố Phl và hủy Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Phl do đã ban hành sai nội dung, sai trình tự thủ tục.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm và các đương sự đều tuân thủ đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính. Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện cho rằng việc vắng mặt người bị kiện ảnh hưởng đến việc tranh luận của ông tại phiên tòa phúc thẩm, do vậy ông yêu cầu hoãn phiên tòa để triệu tập người bị kiện. Xét thấy, việc vắng mặt người bị kiện đã vắng mặt đến lần thứ hai mặc dù đã được tống đạt hợp lệ, do vậy việc xét xử vắng mặt của người bị kiện đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính

- Về nội dung: Ông Trương Văn L đã khẳng định nhận được các quyết định thu hồi, quyết định bồi thường. Mặt khác, phía người ủy quyền là ông Lê Cẩm Q có xác nhận trong biên bản đối thoại ông L đã nhận được quyết định vào năm 2013. Do vậy, cấp sơ thẩm đã đình chỉ xét xử các quyết định do hết thời hiệu là có căn cứ, đúng pháp luật. Quyết định số 1455/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thực hiện thu hồi đất ban hành đúng trình tự, thủ tục và có căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ và thảo luận nghị án của Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng đối tượng khởi kiện, giải quyết đúng thẩm quyền. Người khởi kiện kháng cáo trong thời hạn pháp luật quy định nên được Hội đồng xét xử xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo:

[2.1] Về thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định thu hồi đất số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định bồi thường bổ sung vật kiến trúc số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 đều của UBND thành phố Phl:

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 10/5/2017 (TAND tỉnh Ninh Thuận nhận đơn ngày 11/5/2017), ông Trương Văn L cho rằng ông nhận được Quyết định thu hồi đất số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 và Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 đều của UBND thành phố Phl vào năm 2012 và đã làm đơn khiếu nại đến UBND thành phố Phl từ đó liên tục cho đến nay nhưng không được giải quyết. Lời trình bày trong đơn khởi kiện của ông L là không có cơ sở chấp nhận, vì 02 (hai) quyết định hành chính nêu trên được ban hành vào tháng 08/2013 thì không thể có việc ông L nhận được từ năm 2012 và ông L cũng không xuất trình được bất cứ chứng cứ nào để chứng minh.

Tại Biên bản chi trả tiền bồi thường ngày 30/6/2016, chị Trương Thị Mỹ L1 (con gái của ông L) đại diện cho hộ ông L đã ký nhận các quyết định hành chính nêu trên và Quyết định bồi thường bổ sung vật kiến trúc số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 vào tháng 12/2015, phù hợp với lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện tại phiên tòa sơ thẩm. Do đó, có cơ sở xác định hộ ông L đã được nhận 03 (ba) Quyết định hành chính nêu trên vào tháng 12/2015, đã khiếu nại đến UBND thành phố Phl nhưng không được giải quyết.

Đối chiếu với các quy định tại Điều 28 và Điều 33 Luật khiếu nại, điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính thì tại thời điểm ông L có đơn khởi kiện (ngày 10/5/2017) là đã hết thời hiệu khởi kiện đối với các Quyết định hành chính nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm căn căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 143 Luật tố tụng hành chính để đình chỉ việc xem xét do đã hết thời hiệu khởi kiện là có căn cứ, đúng pháp luật. Kháng cáo của ông L về nội dung này là không có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Phl về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông Trương Văn Lộc.

Về thời hiệu khởi kiện:

Ngày 28/4/2017, Chủ tịch UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 1455/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông Trương Văn L. Ngày 10/5/2017, ông L có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 nêu trên. Căn cứ vào khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính thì đơn khởi kiện của ông L còn trong thời hiệu khởi kiện.

Về thẩm quyền và trình tự thủ tục ban hành Quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013, Chủ tịch UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 1455 ngày 28/4/2017 về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông L là đúng thẩm quyền.

Ngày 02/8/2013, UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 1898/QĐ-UBND về việc thu hồi 185m2 đất có nhà ở tại đô thị (thuộc thửa đất số 9b tờ bản đồ địa chính số 2) của hộ ông L để bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông bắc thành phố Phl. Cùng ngày 02/8/2013, UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 1929/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất cho hộ ông L với số tiền bồi thường, hỗ trợ là 181.286.272 đồng. Ngày 15/12/2015, UBND thành phố Phl ban hành Quyết định số 2431/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung vật kiến trúc cho hộ ông L với số tiền 39.515.536 đồng.

Trong các ngày 30/6/2016, ngày 15/7/2016, ngày 28/7/2016 và ngày 19/8/2016, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Ninh Thuận đã mời hộ ông L nhận tiền bồi thường, hỗ trợ nhưng hộ ông L không đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và không bàn giao mặt bằng.

Ngày 17/4/2017, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Ninh Thuận có Văn bản số 610/TTPTQĐ-BTGPMB về việc đề nghị UBND thành phố Phl ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất 09 hộ gia đình, cá nhân để thực hiện Quyết định thu hồi đất tại dự án khu K1, trong đó có hộ ông L. Sau khi Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Phl thẩm định hồ sơ, quá trình thu hồi, bồi thường, quá trình mời vận động hộ ông L bàn giao mặt bằng và Báo cáo số 37/BC-UBND ngày 11/4/2017 của UBND phường Thanh Sơn, đã có đề nghị tại Tờ trình số 540/TTr-TNMT ngày 25/4/2017 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông L. Trên cơ sở đó, ngày 28/4/2017, Chủ tịch UBND thành phố Phl đã ban hành Quyết định số 1455/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông L là phù hợp với quy định tại Điều 71 Luật đất đai năm 2013. Như vậy, Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Phl được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục.

Về nội dung của Quyết định:

Hộ ông L bị thu hồi đất theo Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, được bồi thường, hỗ trợ theo các Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 và Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015. Các quyết định hành chính nêu trên đã có hiệu lực thi hành nhưng hộ ông L không chấp hành bàn giao mặt bằng. Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Ninh Thuận và UBND phường Thanh Sơn, Mặt trận Tổ quốc phường Thanh Sơn, Công ty cổ phần Th nhiều lần mời ông L đến để nhận tiền bồi thường và vận động bàn giao mặt bằng nhưng hộ ông L vẫn không đồng ý nhận tiền và không chấp hành bàn giao mặt bằng. Do đó, Chủ tịch UBND thành phố Phl phải ban hành Quyết định số 1455 ngày 28/4/2017 để cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông L là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 69 Luật đất đai năm 2013.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông L đòi bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị của ông theo quy định pháp luật tại thời điểm 2017:

Do đã hết thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013, Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 và Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 nên yêu cầu của ông L đòi UBND thành phố Phl bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị theo đúng quy định tại thời điểm 2017 là không có cơ sở. Kháng cáo của ông L về vấn đề này cũng không có căn cứ chấp nhận.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông L phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Trương Văn L (do ông Lê Cẩm Q đại diện). Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 22/2017/HC-ST ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 164; khoản 2 Điều 165; khoản 1 Điều 143; điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 206, Điều 213 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ Điều 38, Điều 40, Điều 44 Luật đất đai 2003; Điều 71 Luật đất 2013; Điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ; Thông tư 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Căn cứ Điều 28, Điều 33 Luật Khiếu nại 2011;

Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn L về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1455/QĐ-UBND ngày 28/4/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Phl về việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của hộ ông Trương Văn L và buộc UBND thành phố Phl bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở đô thị theo đúng quy định pháp luật tại thời điểm 2017.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn L đề nghị Tòa án hủy các quyết định:

- Quyết định số 1898/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND thành phố Phl về việc thu hồi đất do hộ ông Trương Văn L sử dụng tại phường Thanh Sơn để bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thanh phố Phl (Khu K1),

- Quyết định số 1929/QĐ-UBND ngày 02/8/2013 của UBND thành phố Phl về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Trương Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (Khu K1);

- Quyết định số 2431/QĐ-UBND ngày 15/12/2015 của UBND thành phố Phl về việc bồi thường, hỗ trợ bổ sung vật kiến trúc cho hộ ông Trương Văn L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Quy hoạch khu đô thị mới Đông Bắc thành phố Phl (Khu K1).

3. Án phí sơ thẩm: Ông Trương Văn L phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí do bà Nguyễn Tấn Diệu Hiền nộp thay ông L theo biên lai tạm ứng án phí số 0012243 ngày 23/5/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.

Án phí phúc thẩm: Ông Trương Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm; được khấu trừ số tiền 300.000 đồng ông Lê Cẩm Q đã nộp thay theo biên lai thu số 0013833 ngày 26/9/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 352/2018/HC-PT ngày 30/08/2018 về khiếu kiện quyết định thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất

Số hiệu:352/2018/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;