Bản án 345/2018/HSST ngày 16/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 345/2018/HSST NGÀY 16/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 323/2018/HSST ngày 11 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 366/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Thanh N, sinh năm 1990 tại tỉnh M; thường trú: Ấp R, xã Đ, huyện H, tỉnh M; chỗ ở: 50/45 khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trương Long C, sinh năm 1970 và bà Trương Thị P, sinh năm 1972; có vợ tên Lê Thị Ánh N (đã ly hôn); bị cáo có 02 anh chị em ruột, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/8/2018. Có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Phước T, sinh năm 1977; thường trú: 24/6 khu phố 4, phường Q, thành phố H, tỉnh N. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1956; thường trú: 10A/10 khu phố B2, phường A, thị xã D, tỉnh B.Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Thanh D, sinh năm 1998; thường trú: Ấp H, xã L, huyện C, tỉnh M.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 08/8/2018, Trương Thanh N, Nguyễn Thanh D đi đến nhà nghỉ H thuộc khu phố B2, phường A, thị xã D, tỉnh B thuê phòng số 21 để ngủ và đi tìm việc làm. Đến 01 giờ 00 phút ngày 09/8/2018, N thức dậy nghe thấy tiếng điện thoại di động ở phòng số 22 do anh Nguyễn Phước T thuê ngủ. Ngọ mở cửa phòng đi ra ngoài đi đến cửa sổ dạng cửa lùa phòng số 22 thì thấy cửa sổ không khóa chốt, nhìn thấy anh T đang ngủ trên giường và bên cạnh có để 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng đang sạc pin. N leo qua cửa sổ phòng số 22 vào trong đến rút dây sạc pin và lấy điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng của anh T rồi quay về phòng số 21 cất dấu điện thoại di động dưới gối rồi tiếp tục nằm ngủ. Đến khoảng 04 giờ 40 phút cùng ngày, anh T thức dậy phát hiện bị mất điện thoại nên trình báo công an phường A.

Đến khoảng 05 giờ 20 phút cùng ngày, công an phường A kiểm tra hành chính phòng số 21 của nhà nghỉ H phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng và N đầu thú khai nhận hành vi.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng đã thu hồi trả lại cho người bị hại.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 242/BB.ĐG ngày 17/8/2018 của Hội đồng định giá thị xã D kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng có trị giá 2.600.000 đồng.

Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận luận định giá số 242/BB.ĐG ngày 17/8/2018 của Hội đồng định giá thị xã D nêu trên

Tại cáo trạng số 327/CT - VKS ngày 10 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B truy tố bị cáo Trương Thanh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản n1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, h khoản 1, khoản 2 mĐiều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Tại phiên tòa, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về nội dung: Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 09/8/2018, tại phòng số 22 nhà nghỉ H thuộc khu phố B2 phường A, thị xã D, tỉnh B, Trương Thanh N có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng trị giá 2.600.000 đồng của anh Nguyễn Phước T. Đến 4 giờ 40 phút cùng ngày, khi phát hiện mất tài sản anh T đã báo Công an phường A, đến 05 giờ 20 phút Công an phường A kiểm tra hành chính phòng số 21 phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng và N đầu thú khai nhận hành vi phạm tội.

Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 qui định:

 “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

....”.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra , biên bản hỏi cung bị can , lơi khai cua bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi của bị cáo Trương Thanh N đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 327/CT - VKS ngày 10 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam, tư lợi, bị cáo đã cố tình vi phạm. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

 [4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

 [5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

 [6] Về nhân thân: Bị cáo không có nghề nghiệp và đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh M khởi tố về hành vi trộm cắp tài sản.

 [7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho bị hại. Bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [8] Về xử lý vật chứng: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu hồng đã thu hồi trả lại cho anh T, anh T không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [9] Mức hình phạt do đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo N là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, mnộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trương Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Trương Thanh N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/8/2018.

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trương Thanh N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong han 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án . Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 345/2018/HSST ngày 16/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:345/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;