Bản án 34/2023/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 34/2023/DS-ST NGÀY 24/04/2023 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Trong ngày 24 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 164/2022/DS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2022 về việc tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2023/QĐST-DS ngày 07 tháng 3 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh D, sinh năm 1954.

Địa chỉ cư trú: Ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

- Bị đơn: Ông Diệp Văn Ngh, sinh năm 1967. (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Ngọc H, sinh năm 1972 (vợ ông Ngh).

Địa chỉ: Ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời trình bày của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và được bổ sung tại phiên tòa thể hiện như sau:

Trình bày của ông D là nguyên đơn: Ông D cho rằng ngày 01/8/2022, ông Diệp Văn Ngh khoan bơm đất ruộng vào phần đất vườn để san lắp mặt bằng. Do ông Ngh không bao bờ an toàn nên bùn và nước phèn tràn vào ao cá nuôi của ông cách nơi bơm đất khoảng hơn 23m, ông có yêu cầu ông Ngh gia cố bờ bao đừng để nước phèn, bùn tràn qua ao cá của ông nhưng ông Ngh không đồng ý. Sau đó, ông Ngh tiếp tục bơm nước bùn tràn qua áo cá nuôi của ông, ông đã mua phân 15kg (bằng 495.000đ) để khắc phục nhưng không được, đã làm cho cá tra trong ao chết, gây thiệt hại 56 con cá tra, ước tính khoảng 80kg x 40.000đ/kg bằng 3.200.000đ.

Nay ông D khởi kiện yêu cầu ông Ngh có nghĩa vụ bồi thường cho ông các khoản như sau:

Tiền mua 15kg phân DAP bằng 495.000đ.

Tiền các chết 56 con cá = 80kg x 40.000đ/kg = 3.200.000đ.

Tổng cộng là 3.695.000đ. (Ba triệu sáu trăm chín mươi lăm ngàn đồng). Nếu xác minh bùn còn nằm gần ao cá của ông thì chứng tỏ ông Ngh bao lưới không kính tràn bùn và nước phèn qua ao cá của ông làm cho cá chết. Còn không có bùn nằm gần ao cá của ông thì ông hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Trình bày của ông Ngh là bị đơn ngày 10/11/2022: Ông Ngh xác định có phần đất giáp ranh với phần đất của ông Nguyễn Văn Khoa (là em ruột của ông D) khoảng 15m mới đến phần đất và ao nuôi cá của ông D. Phần đất của ông thấp hơn phần đất của ông Khoa và ông D rất nhiều.

Vào ngày 01/8/2022, ông có khoan và bơm đất để san lấp mặt bằng lên phần đất vườn trồng cây mai, cặp với lộ xi măng 01m là lối đi vào nhà của ông. Trước khi ông khoan, bơm đất thì ông đã rào trên phần đất bơm bằng lưới mành xung quanh để không tràn lên lộ xi măng là lối đi duy nhất vào nhà của ông. Việc bơm đất san lắp mặt bằng từ khi bơm cho đến khi nghĩ không nghe ông Khoa và ông D có ý kiến gì. Đến khi bơm đất xong thì ông D cho rằng bùn và nước phèn tràn qua ao cá của ông làm cho cá chết. Ông xác định việc bơm đất không có tràn qua ao cá của ông D làm cho cá chết như ông D trình bày nên ông không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông D. Trường hợp có cá chết thì phải cho ông biết để xử lý, nhưng ông D không báo cho ông biết. Nay ông D khởi kiện là không hợp lý, trường hợp ông D có chứng cứ gì để chứng minh việc ông bơm đất làm cho cá nuôi của ông D chết thì ông hoàn toàn chịu bồi thường theo yêu cầu của ông D.

Trình bày của bà H là người có quyền lợi nghĩ vụ liên quan: Bà H là vợ của ông Ngh, bà thống nhất với lời trình bày của ông Ngh, không bổ sung gì thêm. Bà không đồng ý theo yêu cầu của ông Ngh.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự thực hiện và chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Theo quan điểm của Viện kiểm sát trong vụ án này thì ông Ngh không có lỗi. Ngoài lời trình bày của ông D ra không có chứng cứ thể hiện việc bơm đất bùn của ông Ngh làm cho cá trong ao của ông D chết. Do đó, yêu cầu của ông D là không có cơ sở chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D.

Về án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu của ông D không được chấp nhận ông D phải chịu án phí, nhưng ông D thuộc trường hợp được miễn nên không phải nộp.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa các đương sự không nộp thêm tài liệu, chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ những chứng cứ đã được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn thuộc lĩnh vực dân sự về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Bị đơn ông Diệp Văn Ngh có địa chỉ cư trú tại ấp 5, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện T thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[2] Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Theo yêu cầu của ông D cho rằng ông Ngh khoan, bơm đất ruộng vào phần đất vườn để san lắp mặt bằng làm cho đất bùn, phèn tràn qua ao cá nuôi của ông D bị thiệt hại, làm cho tài sản bị xâm phạm, cụ thể làm cho cá tra nuôi trong ao của ông D bị chết 56 con trị giá 3.200.000đ và chi phí mà ông D dùng phân để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại (phân DAP) là 495.000đ, tổng cộng số tiền yêu cầu thiệt hại là 3.695.000đ.

Tại Điều 584 của Bộ luật dân sự quy định “Người nào có hành vi xâm phạm về tài sản, quyền lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Do đó, cần xem xét việc ông Ngh khoan và bơm đất để san lấp mặt bằng lên phần đất vườn của ông để trồng cây mai có tràn qua phần đất, ao nuôi cá của ông D và làm cho cá chết không để xác định lỗi và trách nhiệm bồi thường.

[3] Xem xét yêu cầu của ông D: Căn cứ vào đơn khởi kiện, lời trình bày của ông D trong quá trình giải quyết vụ án đối chiếu với biên bản thẩm định tại chỗ vào ngày 03/4/2023, thể hiện phần đất mà ông Ngh bơm lên cách lộ xi măng vào nhà ông không có bùn, phần đất còn lại của ông Ngh khoảng 08m và phần đất của ông Khoa (em ruột ông D) 15m toàn cây cỏ mọc không có khoảng trống giáp với bờ ao của ông D có lưới mành màu trắng bao quanh không bùn. Hiện ao cá của ông D vẫn còn đang nuôi cá bình thường không có dấu hiệu cá chết.

Mặc khác, ngoài lời trình bày của ông D thiệt hại 56 con cá tra chết ra, không có hình ảnh hay tài liệu, chứng cứ gì thể hiện ao cá của ông D do nước bùn của ông Ngh bơm tràn vào gây nên cá chết. Trường hợp ông Ngh có khoan, bơm đất bùn tràn vào ao cá của ông D gây nên cá chết thì ông D phải báo chính quyền địa phương lập biên bản sự việc hoặc có người làm chứng ghi nhận sự việc trên.

Do đó, ông D cho rằng ông Ngh bơm đất bùn tràn qua ao các của ông là không có cơ sở chấp nhận.

[4] Do lời trình bày của ông D cùng tài liệu, chứng cứ không thể hiện có cá chết, không gây thiệt hại nên không cần thiết phải định giá tài sản, về số lượng và giá trị thiệt hại.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Yêu cầu của ông D không được chấp nhận nên phải nộp án phí theo quy định, nhưng ông D thuộc trường hợp được miễn nên không phải nộp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 40, 144, 147, 165, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 584, 585, 588, 589, 591, 601 của Bộ luật dân sự;

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí; Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Nguyễn Minh D về việc yêu cầu ông Diệp Văn Ngh bồi thường thiệt hại do ông Ngh khoan, bơm đất bùn vào phần đất vườn để san lắp mặt bằng tràn qua ao cá của ông thiệt hại với số tiền 3.695.000đ.

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông D thuộc trường hợp được miễn, không phải nộp (theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí).

Ông Ngh không phải nộp án phí.

Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2023/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Số hiệu:34/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Lai - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;