Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 34/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở toà án nhân dân huyện An Lão tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 119/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1092/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T; trú tại: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T; trú tại: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện An Lão chị Vũ Thị T trình bày:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Nguyễn Đức T kết hôn với nhau năm vào 2002, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng ngày 15 tháng 10 năm 2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng nhau, anh T không tu chí làm ăn, quan tâm đến gia đình vợ con. Mâu thuẫn kéo dài, đã được gia đình nhiều lần hòa giải, khuyên nhủ, nhưng không có kết quả, chị T đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 12 năm 2018, vợ chồng sống ly thân nhau. Trong thời gian về nhà bố mẹ đẻ chị T đã có tình cảm với người đàn ông khác và đang mang thai của người đàn ông này. Nay chị T thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ, nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện An Lão giải quyết cho chị T được ly hôn anh Nguyễn Đức T.

2. Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Đức T có 02 con chung là Nguyễn Văn T, sinh ngày 13 tháng 8 năm 2004; Nguyễn Đức T, sinh ngày 03 tháng 7 năm 2013. Ly hôn chị T đề nghị được nuôi cả 02 con chung, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Chị T trình bày chị và anh T tự thỏa thuận, không yêu cầu toà án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Đức T trình bày: Anh T thống nhất với chị T về thời gian và điều kiện kiết hôn, chị T bỏ về mẹ đẻ ở từ tháng 12 năm 2018 vợ chồng sống ly thân nhau từ đó, nay anh Tvẫn còn tình cảm với chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng được đoàn tụ; về con chung anh T thống nhất với chị T về việc vợ chồng có 02 con chung về họ tên tuổi, anh T không đề nghị ly hôn nên không đề nghị Tòa án giải quyết về con chung; về tài sản chung công nợ và các vấn đề khác anh T không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là chị Vũ Thị T có đơn khởi kiện về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, anh Nguyễn Đức T là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các đương sự đã cơ bản thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn; chị Tphải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.

- Về yêu cầu của nguyên đơn chị Vũ Thị T:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T kết hôn với anh Nguyễn Đức T, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 15 tháng 10 năm 2002, tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống trên cơ sở lời khai đương sự, biên bản xác minh của Tòa án thấy: Trong thời gian chung sống chị T và anh T đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thông cảm, tin tưởng nhau, chị T về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 12 năm 2018, vợ chồng ly thân nhau, trong thời gian ly thân chị T đã có tình cảm với người đàn ông khác và đang mang thai của người đàn ông này. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, xác định mâu thuẫn giữa chị T và anh T đã phát sinh, nhưng nguyên nhân chính là do chị T không chung thủy, đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng. Nay anh T đề nghị Tòa án không chấp nhận đề nghị xin ly hôn của chị T. Căn cứ vào khoản 1 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[4] Về con chung: Chị T và anh T có 02 con chung là Nguyễn Văn T, sinh ngày 13 tháng 8 năm 2004 và Nguyễn Đức T, sinh ngày 03 tháng 7 năm 2013. Tòa án không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, nên Hội đồng xét xử không xét việc giao con cho ai nuôi, cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 235, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 19, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia  đình;

Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1- Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị T đối với anh Nguyễn Đức T.

2- Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0017186 ngày 25 tháng 4 năm 2019, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, chị T đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo bản án: Chị Vũ Thị T, anh Nguyễn Đức T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:34/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;