TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 33/2024/DS-PT NGÀY 29/02/2024 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI CHUNG
Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh V xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 186/2023/TLPT-DS ngày 25 tháng 12 năm 2023, về việc Tranh chấp lối đi chung. Do bản án dân sự sơ thẩm số 31/2023/DS-ST ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh V có kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 29/2024/QĐ-PT ngày 05 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn ĐL, xã TN, huyện YL, tỉnh V.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1982; địa chỉ: Đường Lương Văn C, phường LB, thành phố VY, tỉnh V, (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Vũ Văn Gi, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn ĐL, xã TN, huyện YL, tỉnh V.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Cụ Vũ Văn K, sinh năm 1939, (vắng mặt).
3.2. Cụ Nguyễn Thị Ch1, sinh năm 1937, (vắng mặt).
3.3. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980.
3.4. Cháu Vũ Thị Th, sinh năm 2004, (vắng mặt). Đều cư trú: Thôn ĐL, xã TN, huyện YL, V.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Vũ Văn Gi và bà Nguyễn Thị H: Ông Nguyễn Quang Th1, sinh năm 1985; Điạ chỉ: TDP 3 Đoài, thị trấn YL, huyện YL, tỉnh V, (có mặt).
5. Người kháng cáo: Bà Lê Thị Thu H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/02/2023, đơn bổ sung đơn khởi kiện ngày 01/9/2023, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày 29/9/2023, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Gia đình ông Nguyễn Văn Ch có thửa đất thổ cư thuộc thửa đất số 290, tờ bản đồ số 01, diện tích 176m2 tại thôn ĐL, xã TN, huyện YL. Nguồn gốc thửa đất này là gia đình ông Ch mua của gia đình ông Gi từ những năm trước, mua với diện tích là 176m2. Khi mua có thủ tục mua bán chuyển nhượng, tuy nhiên hiện nay ông Ch không còn lưu giữ tài liệu về việc mua bán này. Sau khi mua đến năm 1992, gia đình ông Ch đã tiến hành làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nên ngày 05/12/1992 được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện YL cấp GCNQSDĐ số B911142 mang tên Nguyễn Văn Ch với diện tích là 176m2. Để tiện cho việc đi lại, sau khi được cấp GCNQSDĐ, gia đình ông Ch đã tự nguyện để lại một phần đất giáp đường trục thôn, một phần đất giáp danh với đất ông Gi (ngõ vào nhà ông Nh) nằm trong GCNQSDĐ của ông Ch làm ngõ đi chung cho các hộ gia đình, diện tích cụ thể bao nhiêu ông Ch cũng không đo đạc, sau khi tự nguyện để lối đi chung gia đình ông Ch đã xây tường bao loan xung quanh thửa đất. Lợi dụng việc gia đình ông Ch đi làm ăn xa, không ở trên đất, gia đình ông Gi đã sử dụng một phần đất mà gia đình ông Ch để lại làm lối đi chung, cụ thể tại phần đất giáp đường trục thôn của thửa đất số 290, gia đình ông Gi đã xây dựng 01 lán để xe ô tô, mái lợp tôn và tại vị trí giáp đất nhà ông Gi (đường vào nhà ông Nh), gia đình ông Gi đã tự ý quây gạch xung quanh trên lợp mái phloximăng để sử dụng làm nơi chăn nuôi, do đó ông Ch khởi kiện yêu cầu ông Gi phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên diện tích để trả lại lối đi chung.
Tại phiên tòa ngày 03/10/2023, ông Ch yêu cầu ông Gi phải tháo dỡ công trình trên phần diện tích đất đã lấn chiếm để trả lại đất, vì ông Ch cho rằng toàn bộ diện tích mà ông Ch tự nguyện để ra làm lối đi chung, khi tự nguyện để ra không có văn bản gì đồng thời cũng chưa có văn bản pháp lý nào thừa nhận việc này, tổng diện tích đất khoảng 29m2.
Bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan của bà H là ông Nguyễn Quang Th1 trình bày:
Gia đình ông Gi có thửa đất thổ cư số 234, tờ bản đồ số 15, diện tích 123m2 tại thôn ĐL, xã TN, huyện YL. Thửa đất đã được UBND huyện YL cấp GCNQSDĐ mang tên ông Vũ Văn Gi, ngày 12/5/2016. Nguồn gốc thửa đất là của bố mẹ ông Gi tặng cho. Quá trình sử dụng đất gia đình ông Gi đã cải tạo khai hoang thêm một phần đất giáp với đường bê tông liên xã. Năm 2019 ông Gi đã làm 01 lán tôn trên diện tích đất này với mục đích để xe ô tô của gia đình, diện tích lán khoảng 30m2. Ông Gi khẳng định phần lán này không ảnh hưởng, không lấn chiếm đến phần lối đi chung của các hộ xung quanh.
Đối với diện tích đất của gia đình ông Ch nguồn gốc là do gia đình ông Gi chuyển nhượng lại cho mẹ đẻ ông Ch. Khi mua bán hai bên có đo diện tích, tuy nhiên do thời gian chuyển nhượng đã lâu nên không lưu giữ được hồ sơ chuyển nhượng mua bán. Sau khi mua bán đất, gia đình ông Ch đã sử dụng đất ổn định thể hiện bằng các mốc giới xung quanh là tường xây gạch do gia đình ông Ch tự xây từ khoảng năm 1994, sau khi nhận chuyển nhượng đất của gia đình ông Gi, do đó không có việc ông Ch để lại diện tích tại phần tiếp giáp với nhà xe của gia đình ông Gi để làm lối đi chung và ông Ch cho rằng diện tích đất này nằm trong GCNQSDĐ của ông Ch.
Nay ông Ch khởi kiện cho rằng ông Gi đã làm lán sử dụng trên một phần đất mà ông Ch để ra làm ngõ đi chung và yêu cầu ông Gi phải tháo dỡ công trình trên đất để lại đất ông Gi hoàn toàn không nhất trí. Đối với diện tích đất đường vào nhà ông Nh hiện nay ông Gi đang quây gạch nuôi gà, xác định đây là ngõ đi chung, (phần đất này do ông Ch tự nguyện để một phần làm ngõ đi chung) nên nhất trí tháo dỡ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cụ Vũ Văn K, cụ Nguyễn Thị Ch1 và cháu Vũ Thị Th thống nhất trình bày: Gia đình cụ K có diện tích 405m2 tại thửa đất 290, tờ bản đồ 01 thuộc thôn ĐL, xã TN, huyện YL, tỉnh V, nguồn gốc là của cha ông để lại. Khoảng năm 1988 gia đình có chuyển nhượng cho gia đình ông Ch 145m2, sau khi nhận chuyển nhượng gia đình ông Ch đã xây tường bao loan, nhà, sân gạch. Năm 1992 gia đình ông Ch được cấp GCNQSDĐ mang tên ông Nguyễn Văn Ch. Kể từ đó hai bên đều sử dụng ổn định không có sự tranh chấp, năm 2019, ông Gi đã xây dựng lán để xe trên phần đất gia đình khai hoang tiếp giáp với đường giao thông liên thôn của xã, khi ông Gi xây ông Ch không có ý kiến gì. Nay ông Ch khởi kiện cho rằng ông Gi xây dựng trên đất của lối đi chung là không đúng, vì ông Gi làm lán hoàn toàn trên phần đất gia đình đã khai hoang và sử dụng ổn định nhiều năm, việc sử dụng này không ảnh hưởng đến diện tích đất của lối đi chung mà gia đình ông Ch đang khởi kiện.
Đối với diện tích đất đường vào nhà ông Nh, diện tích đất này do gia đình ông Ch tự nguyện để lại một phần đất làm lối đi chung, do gia đình ông Nh hiện nay đi làm ăn không ở nhà nên ông Gi đang quây gạch nuôi gà, xác định đây là ngõ đi chung nên nhất trí tháo dỡ.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2023/DS- ST ngày 03 tháng 10 năm 2023 Toà án nhân dân huyện YL, tỉnh V căn cứ điểm b khoản 2 Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; các Điều 175, 176 và 254 của Bộ luật Dân sự; Điều 147 và Điêu 157 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ch. Buộc ông Vũ Văn Gi phải tháo dỡ toàn bộ các công trình xây dựng trên phần diện tích đất 6,9m² có các chỉ giới 8, 9, 20, 21, 22, 8 và phần diện tích 10,8m2 có các chỉ giới 15, 16, 24, 23, 15 xác định là diện tích đất trong lối đi chung tọa lạc tại thôn ĐL, xã TN, huyện YL, tỉnh V, (có sơ đồ chi tiết kèm theo).
Buộc ông Vũ Văn Gi phải trả lại khoảng không Gin của lối đi chung đã quy hoạch và cấm mọi hành gây vi cản trở việc đi lại của các hộ dân có đất liền kề với lối đi chung này.
Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 16/10/2023, bà Lê Thị Thu H là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Ch kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ch và buộc ông Gi phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng mà ông Gi đã nộp trước đó.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh V phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà H1; áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án số 31/2023/DS-ST ngày 03/10/2023 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh V.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà H1 được làm trong hạn luật định;
đơn hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.1]. Về quan hệ pháp luật: Ông Ch cho rằng ông Gi đã lấn chiếm phần đất mà gia đình ông Ch để lại làm lối đi chung diện tích khoảng 29m2 và yêu cầu bị đơn ông Gi phải tháo dỡ các công trình trên phần diện tích đất đã lấn chiếm để trả lại đất, do đó trong trường hợp này cần xác định đây là tranh chấp lối đi chung, nên Hội đồng xét xử sẽ xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp.
[1.2]. Tại cấp phúc thẩm vắng mặt cụ Vũ Văn K, cụ Nguyễn Thị Ch1 và cháu Vũ Thị Th nên căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt cụ K, cụ Chung và cháu Thủy.
[3]. Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy rằng: [3.1]. Về nguồn gốc đất của ông Ch, các bên đương sự đều thừa nhận là do ông Ch nhận chuyển nhượng của gia đình ông Gi vào khoảng năm 1988. Ông Gi cho rằng gia đình ông nhận chuyển nhượng diện tích là 176m2, trong khi đó bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cho rằng chỉ chuyển nhượng diện tích là 145m2. Khi mua bán các bên có làm thủ tục giấy tờ, nhưng hiện nay không còn lưu giữ được tài liệu gì liên quan đến việc chuyển nhượng này. Qua thu thập tài liệu chứng cứ tại UBND xã TN, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện YL, Văn phòng đăng ký đất đai huyện YL cũng không còn lưu giữ tài liệu gì liên quan đến việc mua bán chuyển nhượng đất giữa gia đình nguyên đơn và gia đình bị đơn.
[3.2]. Sau khi nhận chuyển nhượng gia đình ông Ch sử dụng ổn định, đến ngày 05/12/1992 được cấp GCNQSDĐ mang tên là Nguyễn Văn Ch, với diện tích 176m2, tờ bản đồ số 01, số thửa 290 tại thôn ĐL, xã TN, huyện YL, tỉnh V. Đối với diện tích đất của gia đình ông Gi sau khi chuyển nhượng cho ông Ch, năm 2003 đã làm thủ tục xin cấp GCNQSDĐ mang tên chủ hộ Vũ Văn K với diện tích 123m2, tờ bản đồ số 01, số thửa 290. Đến năm 2015, cụ K, cụ Chung có tặng cho ông Gi, sau khi được tặng cho đến ngày 12/5/2016, ông Gi được nhà nước cấp GCNQSDĐ.
[4]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện, thửa đất số thửa 290 của gia đình ông Ch có diện tích là 145,4m2 (thiếu 30,6m2 bao gồm cả diện tích để ra làm lối đi chung); diện tích đất vẫn đang là lối đi chung là 11m2 giới hạn các mốc 7, 8, 22, 23, 24, 25, 7. Diện tích đất đang tranh chấp tại vị trí giáp đường trục thôn là 15,9m2, giới hạn các mốc 8, 9, 10, 19, 20, 21, 22, 8, trên diện tích đất này có một phần lán lợp tôn do gia đình bị đơn làm và sử dụng; diện tích đất tại ngõ vào nhà ông Nh là 10,8m2, giới hạn các mốc 15, 16, 24, 23, 15 trên diện tích đất này gia đình ông Gi có quây gạch làm tường xung quanh, trên lợp phibloximăng để sử dụng làm chỗ chăn nuôi. Các bên đương sự đều đồng ý không có ý kiến gì về kết quả thẩm định. Ông Ch cho rằng diện tích đất gia đình ông thiếu 30,6m2 so với GCNQSDĐ và theo ông Ch, chính tại biên bản làm việc ngày 12/7/2022 của UBND xã TN đã xác định ông Gi đang sử dụng một phần ngõ đi chung nằm trong GCNQSDĐ của ông. Do đó, ông Ch khẳng định ông Gi đã lấn đất của gia đình ông Ch, phần diện tích đất đang còn thiếu (đã hiến làm lối đi Chung) và yêu cầu ông Gi phải tháo dỡ công trình trái phép trên lối đi chung.
Mặc dù trình bày như vậy nhưng ông Ch thừa nhận sau khi nhận chuyển nhượng đất của gia đình ông Gi, ông đã tự nguyện để lại một phần đất làm ngõ đi chung, nhưng diện tích để ra cụ thể bao nhiêu mét, chiều cạnh cụ thể thế nào ông cũng không biết vì không tiến hành đo đạc gì, kể từ đó gia đình ông Ch cùng các hộ gia đình xung quanh vẫn sử dụng ngõ đi chung này.
[5]. Tòa án cấp sơ thẩm làm việc với UBND xã TN về nội dung biên bản làm việc ngày 12/7/2022, UBND xã TN xác định, ông Gi đang sử dụng một phần ngõ đi chung nằm trong GCNQSDĐ của ông Ch, UBND xã kết luận như vậy là trên cơ sở kiểm tra hiện trạng và đối chiếu theo tỷ lệ bản đồ 299 đối với thửa đất của ông Gi (dùng phương pháp đo tỷ lệ bản đồ), tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông Ch, bản đồ 299 chưa thể hiện có ngõ đi chung này, nhưng hiện nay trên bản đồ 299 có thể hiện việc chỉnh lý đối với thửa đất của ông Ch, phần chỉnh lý này thể hiện tại phần ngõ đi chung giữa đất thổ cư nhà ông Gi và đất thổ cư nhà ông Ch, tuy UBND xã TN không có tài liệu gì lưu trữ thể hiện làm căn cứ đính chính.
[6]. Tại công văn số 308/TNMT-HC ngày 23/8/2023 Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện YL cho biết: Theo bản đồ 299 đo đạc tháng 05/1992, nghiệm thu ngày 16/5/21992 thể hiện thửa đất 290b, diện tích 176m2 được chỉnh lý thành thửa 290c, diện tích 145m2 (do cắt một phần thửa đất); sổ mục kê đất có xác nhận của UBND xã TN ngày 10/11/1998 và xác nhận của Sở Địa chính ngày 21/10/1999 thể hiện: Thửa đất 290c, tên chủ sử dụng Nguyễn Văn Ch, diện tích 145m2 (loại đất OTC). Sổ địa chính có xác nhận của UBND xã TN ngày 10/11/1998 và xác nhận của Sở địa chính ngày 21/10/1999 thể hiện: Thửa đất 290, diện tích 176m2. Sổ cấp giấy chứng nhận không có xác nhận của Ủy ban xã, không có ngày tháng năm thể hiện: Thửa đất 290, diện tích 176m2.
[6.1]. Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện YL khẳng định, GCNQSDĐ số 911142 cấp cho ông Nguyễn Văn Ch, thửa 290b, tờ bản đồ số 01, diện tích 176m2 tại thôn Đông Lỗ, xã TN, huyện YL đã có sự biến động trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên việc chỉnh lý các loại hồ sơ chưa được UBND xã TN thực hiện kịp thời, lỗi này thuộc về cán bộ địa chính xã TN (thời điểm cấp giấy chứng nhận).
[7]. Như vậy có thể thấy, mặc dù theo bìa đỏ ông Ch diện tích là 176m2, tuy nhiên quá trình sử dụng đã có sự biến động, đã cắt một phần thửa đất và bản thân ông Ch trình bày có để một phần làm lối đi chung, do đó diện tích của ông Ch chỉ còn là 145m2 đất. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả xem xét thẩm định tại chỗ mà Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành (tất cả các đương sự không ai có ý kiến thắc mắc đối với kết quả thẩm định), cũng như phù hợp với Bản đồ 299 và sổ mục kê lưu tại UBND xã TN, huyện YL. Ngoài ra theo bản đồ đo vẽ năm 2008 thể hiện phần ngõ đi chung và diện tích ngõ đi này thể hiện (chiều rộng một cạnh là 1,78m, một cạnh là 2,09m; chiều dài một cạnh là 10,38m, một cạnh là 10,07m) tổng diện tích là 19.7m2, diện tích này hoàn toàn phù hợp với kết quả đo vẽ ngày 29/5/2023.
[7.1]. Cấp sơ thẩm sau khi xem xét chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ch, buộc ông Gi phải tháo dỡ toàn bộ công trình có trên phần diện tích đất tại vị trí giáp đường liên thôn là 6,9m2 có các chỉ giới 8, 9, 20, 21, 22, 8 và tại vị trí giáp ranh giữa nhà ông Ch và ông Gi (đường vào nhà ông Nh) là 10,8m2 có các chỉ giới 15, 16, 24, 23,15 để trả lại lối đi chung là phù hợp. Từ phân tích trên thấy rằng yêu cầu kháng cáo của bà H1 không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[8]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Cấp sơ thẩm trả lại ông Ch số tiền nộp tạm ứng đã nộp và buộc ông Gi phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là có căn cứ. Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên ông Ch không phải chịu án phí phúc thẩm.
[9]. Về chi phí tố tụng: Đối với chi phí thẩm định, định giá do yêu cầu của ông Ch được chấp nhận một phần, nên cần buộc ông Gi phải trả cho ông Ch toàn bộ số tiền 5.700.000đ chi phí thẩm định và định giá mà ông Ch đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự: Sửa một phần Bản án số: 31/2023/DS-ST ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh V về thanh toán chi phí tố tụng.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; các Điều 175, 176 và 254 của Bộ luật Dân sự; các Điều 147, Điều 157, 158, 164,165 và 166 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ch. Buộc ông Vũ Văn Gi phải tháo dỡ toàn bộ các công trình xây dựng trên phần diện tích đất 6,9m² có các chỉ giới 8, 9, 20, 21, 22, 8 và phần diện tích 10,8m2 có các chỉ giới 15, 16, 24, 23, 15 xác định là diện tích đất là lối đi chung, tại thôn ĐL, xã TN, huyện YL, tỉnh V, (có sơ đồ chi tiết kèm theo).
2. Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn Ch không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, trả lại ông Ch số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 750.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001589 ngày 27/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện YL. Ông Nguyễn Văn Ch không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, trả lại ông Ch số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003057 ngày 06/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện YL.
- Ông Vũ Văn Gi phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về chi phí tố tụng: Ông Vũ Văn Gi phải thanh toán trả ông Vũ Văn Chung số tiền 5.700.000 đồng chi phí thẩm định, định giá tài sản.
Kể từ ngày ông Vũ Văn Chung có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Vũ Văn Gi không tự nguyện thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều Điều 468 của Bộ luật Dân sự Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 33/2024/DS-PT về tranh chấp lối đi chung
Số hiệu: | 33/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về