Bản án 32/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2023/TLST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Mai Điệp L, sinh năm 1991, tại Quảng Trị; nơi cư trú: khu phố 1, phường 1, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Xuân H, sinh năm 1966 và bà Lê Thị L, sinh năm 1966; Nơi cư trú:

khu phố 1, phường 1, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị; vợ, con: chưa có.

Tiền án: có 01 tiền án. Ngày 14/7/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử 30 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”, theo bản án hình sự sơ thẩm số 79/2021/HSST ngày 14/7/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13/5/2023.

Tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Mai Xuân H, sinh năm 1966; Nơi cư trú: khu phố 1, phường 1, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị - Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mới chấp hành xong hình phạt tù, chưa có việc làm nên sáng ngày 28/8/2023, Mai Điệp L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74E1-051.36 (xe của ông Mai Xuân H bố bị cáo) ra khu vực bến xe thành phố Đông Hà để tìm việc làm. Khi ra đến bến xe thành phố Đông Hà thì có một người đàn ông lạ mặt đến hỏi và thuê L vận chuyển hàng hoá vào chợ thị xã Quảng Trị với số tiền công là 150.000 đồng, khi được thuê vận chuyển hàng thì L đồng ý. L thấy người này chở trên xe máy (Linh không nhớ biển kiểm soát) 02 túi hàng dạng túi ni lông to có quai xách gồm:

01 túi màu xanh rêu có quai xách màu đen; 01 túi màu xanh xám dây kéo màu vàng, quai xách màu xám, trong túi đã xếp sẵn hàng hoá. L hỏi người đó trong đó có hàng gì thì được trả lời là 100 cây thuốc lá hiệu JET. Mặc dù Linh biết vận chuyển thuốc lá JET không có hoá đơn chứng từ là vi phạm pháp luật nhưng L vẫn đồng ý nhận vận chuyển để lấy tiền công. Sau đó, L vận chuyển số hàng hoá nói trên từ thành phố Đông Hà vào thị xã Quảng Trị, khi đi qua đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận Tiểu khu 2, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thì bị tổ công tác Công an huyện Triệu Phong dừng phương tiện để kiểm tra. Tại thời điểm Công an kiểm tra, L không xuất trình được hoá đơn chứng từ để chứng minh tính hợp pháp của hàng hoá nói trên nên tổ công tác lập biên bản thu giữ toàn bộ tang vật và phương tiện vận chuyển. Tại cơ quan điều tra, L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận giám định số 406/KLGĐ - KTHS ngày 04/9/2023, của Phòng kỷ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 1000 bao thuốc lá điếu (ghi nhãn hiệu Jet, loại 20 điếu/ bao, 10 bao/hộp) gửi đến giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm, mang nhãn hiệu JET, không phải là thuốc lá điếu được sản xuất tại Việt Nam (do nước ngoài sản xuất).

Cáo trạng số 30/CT - VKSTP ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong truy tố Mai Điệp L về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm e khoản 1 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Mai Điệp L từ 06 tháng đến 08 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”, thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi đi hành án; về xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ 990 bao thuốc lá điếu hoàn lại sau giám định nhãn hiệu JET; 02 túi xách màu xanh; về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Triệu Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, được thể hiện như sau: do mới chấp hành xong hình phạt tù từ tháng 5 năm 2023 nên bị cáo chưa tìm được việc làm. Do đó, ngày 28/8/2023, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74E1-051.36 ra khu vực bến xe thành phố Đông Hà để tìm việc làm. Tại đây, bị cáo nhận vận chuyển 02 túi hàng gồm 100 cây thuốc lá nhãn hiệu JET vào thị xã Quảng Trị của một người đàn ông không quen biết với số tiền công là 150.000 đồng. Khi bị cáo đang điều khiển xe trên đường Quốc lộ 1A, thuộc địa phận Tiểu khu 2, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thì bị tổ công tác Công an huyện Triệu Phong dừng phương tiện để kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra, bị cáo không xuất trình được hoá đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc của số thuốc lá nói trên nên tổ công tác lập biên bản thu giữ toàn bộ tang vật và phương tiện. Tại bản kết luận giám định số 406/KLGĐ - KTHS ngày 04/9/2023, của Phòng kỷ thuật Hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 1000 bao thuốc lá điếu (ghi nhãn hiệu Jet, loại 20 điếu/ bao, 10 bao/hộp) gửi đến giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm, mang nhãn hiệu JET, không phải là thuốc lá điếu được sản xuất tại Việt Nam (do nước ngoài sản xuất). Hành vi vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi, đó của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” được quy định xử phạt theo Điều 191 Bộ luật hình sự. Mặc dù tang số vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu dưới 1.500 bao theo quy định taị điểm điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo phạm tội trong trường hợp đã bị kết án về tội “Vận chuyển hàng cấm” nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm vì: bị cáo, bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”, theo bản án hình sự sơ thẩm số 79/2021/HSST ngày 14/7/2021. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13/5/2023 nên bị cáo phải bị truy tố và xét xử theo điểm e khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và quá trình nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: bị cáo là đối tượng hình sự, mới chấp hành xong hình phạt vào ngày 13/5/2023 thì đến tháng 8 năm 2023 có hành vi phạm tội. Bị cáo biết rỏ vận chuyển thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình vận chuyển, điều đó chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật mà dẫn đến phạm tội. Vì vây, cần phải xử lý một cách nghiêm khắc với bị cáo, mới đảm bảo tính răn đe và giáo dục và phòng ngừa chung. Nhưng khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo vì: trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Sau khi xem xét tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và quá trình nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Mai Xuân H (bố bị cáo) là chủ sở hửu xe mô tô biển kiểm soát 74E1-051.36 do bị cáo sử dụng để vận chuyển hàng cấm. Trong quá trình điều tra, Công an huyện Triệu Phong xác định, xe này ông H để ở nhà bị cáo tự ý sử dụng và thực hiện hành vi phạm tội thì ông H không biết nên ông H không có lỗi. Quá trình điều tra Công an đã trả lại xe cho ông Hồng, nay ông H không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: trong quá trình điều tra Công an huyện Triệu Phong đã thu giữ 1000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu JET, loại 20 điếu/bao, hoàn lại sau giám định là 990 bao; 02 túi xách dùng đựng thuốc lá, Hội đồng xét xử thấy: cần tịch thu tiêu hủy 990 bao thuốc lá nhãn hiệu JET hoàn lại sau giám định vì đây là hàng hóa thuộc danh mục cấm lưu thông trên thị trường là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Đối với 02 túi xách, do bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Mai Điệp L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

- Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Mai Điệp L 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu huỷ 990 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu JET, loại 20 điếu/bao) và 02 túi xách màu xanh.

Các vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Đặc điểm của các loại vật chứng này được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/11/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Phong.

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Mai Điệp L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;