Bản án 32/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Điên Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 03/7/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST-HS ngày 16/7/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Giàng Thị S; sinh năm 1955 tại huyện C, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT: Bản L, xã T, huyện P, tỉnh Điện Biên; Chỗ ở: Bản L, xã T, huyện P, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A V (đã chết) và bà Cháng Thị A (đã chết); Bị cáo có chồng là Sùng A D (đã chết) và 05 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 19/5/2011 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tại Bản án số 40/2011/HSST; đến ngày 18/01/2013 được cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù trở về địa phường sinh sống. Ngày 01/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù cũng về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số 32/2016/HSST; ngày 08/02/2018 được cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù, trở về địa phương sinh sống. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/4/2020, sau đó tạm giam từ ngày 20/4/2020 cho tới nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút, ngày 14/4/2020, tổ công tác Công an huyện P phối hợp với Công an xã T làm nhiệm vụ tại khu vực bản L, xã T, huyện P, tỉnh Điện Biên, phát hiện trong nhà Giàng Thị S có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật. Khi thấy tổ công tác, Giàng Thị S bỏ chạy ra khỏi nhà, tổ công tác đã yêu cầu Giàng Thị S quay lại nhà để kiểm tra. Sau khi tiến hành kiểm tra, tổ công tác phát hiện dưới chân bàn uống nước tại nhà của Giàng Thị S có 01 gói nilon màu trắng. Tổ công tác mời người chứng kiến, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng là 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng đục. Tổ công tác đã đưa người bị bắt và vật chứng về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P để điều tra làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Giàng Thị S khai nhận: Gói chất bột màu trắng đục bị thu giữ trên là Heroine của Giàng Thị S mua của 01 người đàn ông dân tộc Thái với giá 50.000 đồng, tại khu vực đầu bản L, xã T, huyện P, tỉnh Điện Biên vào khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 14/4/2020. Khi mua được Heroine, S đã cất giấu dưới chân bàn uống nước gần giường ngủ trong nhà mình, rồi đi đuổi dê. Khi đi đến cửa nhà thì S gặp tổ công tác nên đã hoảng sợ bỏ chạy. Giàng Thị S mua Heroine với mục đích tàng trữ sử dụng cho bản thân vì S là người nghiện ma túy.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 15/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P xác định: 01 gói chất bột dạng nén màu trắng đục thu giữ của Giàng Thị S có khối lượng 0,18 (không phẩy mười tám) gam, lấy mẫu giám định 0,11 (không phẩy mười một) gam, còn lại 0,07 (một phẩy không bẩy) gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 340/GĐ-PC09, ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: "Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng Thị S gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018".

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT-VKSNP ngày 02/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Giàng Thị S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Giàng Thị S đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện P đã truy tố bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Giàng Thị S từ 12 tháng đến 18 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ vật chứng của vụ án là Heroine. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

Bị cáo Giàng Thị S nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Giàng Thị S thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình: Vào hồi 18 giờ 30 phút, ngày 14/4/2020, Giàng Thị S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,18 (không phẩy mười tám) gam Heroine cất giấu dưới chân bàn tại nhà bị cáo ở bản L, xã T, huyện P, tỉnh Điện Biên. Mục đích bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo là người nghiện ma túy. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Giàng Thị S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện P đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” [2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đã và đang đi ngược lại với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong việc cấm trồng, sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn xã T, huyện P. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo là người nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng, bị cáo đã mua Heroine về tàng trữ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không bị ai xúi giục. Do đó, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cải tạo bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời làm gương răn đe giáo dục các đối tượng khác đang và đã có hành vi như bị cáo nhưng chưa bị phát hiện, xử lý.

[3] Về nhân thân bị cáo: Giàng Thị S xuất thân trong gia đình nông dân, nhưng không chịu lao động, sống buông thả nên đã nghiện ma túy. Tại Bản án số 40/2011/HSST, ngày 19/5/2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, đến ngày 18/01/2013 được cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù. Tiếp đó, tại Bản án số 32/2016/HSST, ngày 01/4/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù cũng về tội Mua bán trái phép chất ma túy, đến ngày 08/02/2018 được cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù. Tuy nhiên, sau khi chấp hành hình phạt tù của 02 bản án, trở về địa phương sinh sống, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, mà đến ngày 14/4/2020 bị cáo lại tiếp tục phạm tội trong vụ án này. Mặc dù, khi phạm tội mới, bị cáo đã được xóa án tích của cả 02 bản án trước nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Khi bị bắt giữ bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, nghề nghiệp chính là làm nương, gia đình không có tài sản giá trị (Biên bản xác minh ngày 18/4/2020 và ngày 28/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P) nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là Heroine và toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Trong vụ án Giàng Thị S khai nhận đã mua Heroine của người đàn ông dân tộc Thái, vào hồi 18 giờ 00 phút, ngày 14/4/2020 tại khu vực đầu bản L, xã T, huyện P. Do bị cáo không biết tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là dân tộc thiểu số (dân tộc Mông) sống tại xã T, huyện P là xã có điều kiện - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Giàng Thị S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng Thị S 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/4/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 0,07 (không phẩy không bẩy) gam Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định và toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/7/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P và Chi cục thi hành án dân sự huyện P)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng Thị S.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Giàng Thị S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 28/7/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;