Bản án 32/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH OAI, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 32/2020/HSST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 27/2020/HSST ngày 19 tháng 5 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/HSST–QĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vũ Ngọc L, tên gọi khác: Không có; Sinh năm: 1993; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn 5, xã P L, huyện N Q, tỉnh N B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 09/12. Bố là: Vũ Văn G, sinh năm: 1970 và mẹ là: Đỗ Thị T, sinh năm: 1973. Có vợ là: Lê Thị C và có 01 con, sinh năm 2015.Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/01/2020 đến ngày 03/02/2020 được thay đổi áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.Có mặt.

2. Họ và tên: Bùi Mạnh H, tên gọi khác: Không có; Sinh năm: 1995; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn 5, xã P L, huyện N Q, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Bố là: Bùi Văn C, sinh năm: 1959 và Mẹ là: Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1964; Gia đình bị can có 05 anh chị em. Bị cáo là con thứ 05; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/01/2020 đến ngày 03/02/2020 được thay đổi áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

3. Họ và tên: Trần L P ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 2000; ĐKHKTT: thôn L C, xã V P, huyện N Q, tỉnh N B; Quốc tịch: Việt Nam;Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Bố là: Trần Hoàng H, sinh năm: 1971 và mẹ là: Nguyễn Thị Ng; Sinh năm: 1974; Gia đình bị can có 02 chị em; Bị cáo là con thứ 02; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/01/2020 đến ngày 03/02/2020 được thay đổi bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

4. Họ và tên: Vũ Văn Th; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1993; ĐKHKTT: thôn 1, xã Th V, huyện T Th, tỉnh T H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Bố là: Vũ Văn C; Sinh năm: 1962, Mẹ là: Đặng Thị Th; Sinh năm: 1962; Gia đình bị can có 04 anh em. Bị cáo là con thứ 03; Hiện đều ở thôn 1, xã Th V, huyện T Th, tỉnh T H; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/01/2020 đến ngày 03/02/2020 được thay đổi áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Ngọc L, sinh năm 1993, Bùi Mạnh H, sinh năm 1995, đều trú tại thôn 5, xã P L, huyện N Q, tỉnh N B, Trần L P, sinh năm 2000, trú tại thôn L C, xã V P, huyện N Q, tỉnh N B và Vũ Văn Th, sinh năm 1993, trú tại thôn 1, xã Th V, huyện T Th, tỉnh T H có quan hệ quen biết xã hội, cùng làm lao động tự do tại khu vực khu đô thị T H, xã C Kh, huyện T O. Khoảng 22 giờ 00 ngày 30/01/2020, H, P, Th đến lán làm việc của Bùi Mạnh H tại khu đô thị T H, khi đang ngồi chơi, L nảy sinh ý định mua ma tuý về cùng sử dụng, thì L, Th, P đồng ý. L đưa P 30.000 đồng, Th đưa P 20.000 đồng, H đưa P 30.000 đồng và P góp 20.000 đồng. Sau đó, L điều khiển xe mô tô Honda Wave màu xanh đen BKS 35B2- 452.97, chở theo Th, H, P đến khu vực Cầu C Kh, đến nơi, Th, H, L đứng đợi, còn P điều khiển xe mô tô đi tìm mua ma tuý. P đi khoảng 01km, trên đường Cienco về hướng T H, thì gặp 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi, da đen, ngồi trên xe taxi (không rõ nhân thân, lai lịch), P hỏi mua được 01 túi ma tuý với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, P cầm ở tay trái rồi điều khiển xe mô tô quay lại vị trí của Th, H, và đang đứng đợi, P đưa túi ma tuý trên cho H, H cầm túi ma tuý, cho vào túi quần bò phía trước bên phải. Sau đó, L tiếp tục điều khiển xe mô tô chở H, Th, P đi trên đường Cienco 5, về hướng H Đ để tìm địa điểm sử dụng ma tuý. Khi tất cả đi đến khu vực ngã tư giao cắt với khu đô thị T H, thì H bị lực lượng Cảnh sát cơ động dừng xe kiểm tra hành chính, phát hiện, bắt quả tang H đang tàng trữ trái phép ma tuý trên người. Ngay sau đó, lực lượng Cảnh sát cơ động đã niêm phong tang vật và bàn giao 04 đối tượng trên cùng tang vật của vụ án cho Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thanh Oai.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng 02cm x 01cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng (L khai là ma tuý đá); 01 xe mô tô Honda Wave màu xanh đen, BKS 35B2-…52.. (đã qua sử dụng).

Tại Bản kết luận giám định số 1038/KLGĐ - PC09 ngày 06/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Bộ Công an kết luận “Tinh thể trắng bên trong 01 túi nilon là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 0,253 gam” Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa:

Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của bản thân, đồng thời trình bày: Đã nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình làm lại cuộc sống.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố vì hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản cáo trạng số 28/CT – VKS ngày 18/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Ngọc L, Vũ Văn Th, Trần L P mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ. xử phạt bị cáo Bùi Mạnh H mức hình phạt từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Tịch thu tiêu hủy tang vật của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy trình Tố tụng hình sự.

[2].Về nội dung: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu điều tra đã được kiểm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 23 giờ 15 phút ngày 30/01/2020, tại khu vực đường Cienco 5, thuộc địa phận xã C Kh, huyện Thanh Oai, Vũ Ngọc L có hành vi tàng trữ trái phép 0,253 gam Methamphetamine, do Hà cùng Bùi Mạnh H, Trần L P và Vũ Văn Th cùng góp tiền để đi mua ma tuý, nhằm mục đích sử dụng chung. Trong đó, L góp 30.000 đồng, Th góp 20.000 đồng, H góp 30.000 đồng và P góp 20.000 đồng.

Theo Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" thì: 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin,Côcain,Methamphetamine,Amphetamine,MDMA có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam… Như vậy hành vi của Vũ Ngọc L, Bùi Mạnh H, Trần L P và Vũ Văn Th đã phạm vào tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 ( Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

2.1. Về tính chất: Vụ án có tính nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm vào chế độ quản lý, sử dụng các chất gây nghiện của nhà nước, bản thân các bị cáo biết rõ việc mua và tàng trữ các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mắc nghiện nên đã đi mua ma tuý để sử dụng, vì vậy phải có mức hình phạt phù hợp và cách ly ra khỏi xã hội để trừng trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

2.2. Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Sau khi có ý định sử dụng ma túy, các bị cáo đã cùng nhau góp tiền, cùng nhau đi mua ma túy để sử dụng chung thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn do vậy vai trò của các bị cáo là như nhau nên áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo bằng nhau là hợp lý.

2.3. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đã khai báo thành khẩn, vì vậy cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

2.4. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự.

2.5.Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo bị cách ly xã hội, gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định vì vậy miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo là hợp lý.

2.6. Đối với chiếc mô tô Honda Wave màu xanh đen, BKS 35B2- ...52.., số khung 592..., số máy 0567... (đã qua sử dụng), quá trình điều tra xác định đăng ký xe mang tên ông Vũ Văn C (là bố đẻ của Vũ Văn Th), xe không nằm trong hệ thống xe vật chứng. Khoảng tháng 10/2018, Th mượn ông C chiếc xe máy trên để đi làm trên Hà Nội, ông C không biết Th sử dụng chiếc xe máy trên đi mua ma tuý. Do vậy, việc Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe máy trên cho ông C, là có căn cứ.

2.7. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho P, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng không xác định được nhân thân lai lịch, nên không có căn cứ xem xét xử lý.

2.8. Đối với Bùi Mạnh H, điều khiển xe mô tô chở theo sau 03 người (Vũ Ngọc H, Vũ Văn Th, Trần L P) không có giấy phép lái xe mô tô, xe mô tô không có Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Cơ quan Công an huyện Thanh Oai đã ra quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ đối với H, là có căn cứ.

[3].Về tang vật: Chất ma túy hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[4].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 thì các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Từ nhận định trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Ngọc L, Bùi Mạnh H, Trần L P và Vũ Văn Th phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Vũ Ngọc L 15 ( Mười lăm ) tháng tù, được trừ 03( Không ba) ngày tạm giữ từ 31/01/2020 đến 03/02/2020, còn phải chấp hành 14 tháng 27 ngày ( Mười bốn tháng hai mươi bẩy ngày), thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, Xử phạt Bùi Mạnh H 15 ( Mười lăm ) tháng tù, được trừ 03( Không ba) ngày tạm giữ từ 31/01/2020 đến 03/02/2020, còn phải chấp hành 14 tháng 27 ngày ( Mười bốn tháng hai mươi bẩy ngày), thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, Xử phạt Vũ Văn Th 15 ( Mười lăm ) tháng tù, được trừ 03( Không ba) ngày tạm giữ từ 31/01/2020 đến 03/02/2020, còn phải chấp hành 14 tháng 27 ngày ( Mười bốn tháng hai mươi bẩy ngày), thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, Xử phạt Trần L P 15 ( Mười lăm ) tháng tù, được trừ 03( Không ba) ngày tạm giữ từ 31/01/2020 đến 03/02/2020, còn phải chấp hành 14 tháng 27 ngày ( Mười bốn tháng hai mươi bẩy ngày), thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án,

3.Về tang vật của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015; Điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015. Tịch thu tiêu hủy chất ma túy hoàn lại sau giám định đã được niêm phong trong bì thư của phòng PC09 – Công an Hà Nội có chữ ký của Vũ Ngọc L và đồng chí Trần Văn Đ, Vũ Văn H cùng giám định viên tại các mép dán.Vật chứng hiện đang do Chi cục thi hành án Dân sự huyện Thanh Oai quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và chi cục thi hành án Dân sự huyện Thanh Oai lập ngày 31tháng 5 năm 2020.

4. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Vũ Ngọc L, Bùi Mạnh H, Trần L P và Vũ Văn Th, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/6/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 32/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;