TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 317/2017/DS-PT NGÀY 13/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỤI
Ngày 13 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công hai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 191/2017/TLPT- DS ngày 09 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp dân sự về hợp đồng hụi.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 35/2017/DS-ST ngày 22/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Tháp bị háng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2017/QĐPT-DS ngày 20 tháng 11 năm 2017 giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Việt A1, sinh năm 1965; địa chỉ: Số , ấp B, xã H, huyện C, tỉnh A.
2. Bị đơn: Bà Sa Tú A2, sinh năm 1961, địa chỉ: ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Anh Dương Thanh N, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp B, xã H, huyện C, tỉnh A.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Dương Thanh N: Chị Võ Thị Bích T, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện theo ủy quyền của anh N (Văn bản ủy quyền ngày 12/7/2017);
3.2. Chị Võ Thị Bích T, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
(Anh N, chị T có đơn xin vắng mặt).
Người háng cáo: Bà Sa Tú A2 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Nguyễn Thị Việt A1 trình bày:
Bà có tham gia dây hụi 1.000.000đ, hụi lần đầu vào ngày 20/6/2015 âl do bà A2 làm chủ hụi, hụi nữa tháng hụi một lần và có 36 phần, bà tham gia 01 phần, việc hai bên giao ết hợp đồng dân sự hụi thì bà A2 có giao sổ hụi cho bà. Sau khi tham gia hụi, bà có đóng hụi sống cho bà A2 được 33 lần. Đến lần hụi thứ 34, bà yêu cầu hốt hụi nhưng hốt hụi hông được, bà A2 hông đến góp hụi ở lần hụi hụi thứ 34 và 35. Ngày 05/12/2016 âl hụi mãn, bà A2 có ghi giấy tay với nội dung cấn trừ nợ hụi với bà ở 33 lần hụi sống trên vào dây hụi 1.000.000đ khác mà bà A2 làm chủ hụi, bà là hụi viên và bà đã hốt hụi ở dây hụi này, nhưng phải đóng hụi chết cho bà A2 29 lần với số tiền 29.000.000đ, bà hông đồng cấn trừ hụi theo yêu cầu của bà A2. Nay bà đồng cấn trừ số tiền hụi 3.000.000đ mà chị T nợ hụi chết của bà A2 trong dây hụi 1.000.000đ hụi lần đầu ngày 20/6/2015âl (cùng dây hụi với bà) vào số tiền hụi 33.000.000đ (là số tiền hụi của 33 lần hụi sống ở dây hụi 1.000.000đ hụi lần đầu ngày 20/6/2015âl hiện đang tranh chấp) mà bà A2 nợ bà, nên nay bà chỉ yêu cầu bà A2 hoàn trả tiền hụi còn nợ lại là 30.000.000đ, hông yêu cầu tiền lãi, hông yêu cầu giải quyết số tiền 3.000.000đ mà chị T nợ lại bà trong vụ án này.
Bà Sa Tú A2 trình bày:
Vào ngày 20/6/2015âl bà A1 có tham gia dây hụi 1.000.000đ nữa tháng hụi hụi một lần, hụi gồm 36 phần do bà làm chủ như bà A1 đã trình bày, ở dây hụi này bà A1 tham gia 02 phần, ngày 05/3/2016âl bà A1 hốt phần hụi có tên là N.T, bà giao tiền hụi cho bà A1 thông qua con bà A1 là N.T. Đến lần thứ 34, bà A1 yêu cầu hốt phần hụi còn lại, nhưng bà hông đồng cho bà A1 hốt và ngừng hông góp hụi của bà A1 nữa, vì bà cho rằng bà A1 hông có đủ hả năng chơi hụi tiếp tục và bà giữ phần tiền bà A1 đã đóng hụi 33 lần để thực hiện nghĩa vụ của bà A1 trong phần hụi tên N.T, trong dây hụi này còn nợ 03 lần hụi chết với số tiền 3.000.000đ và dây hụi 1.000.000đ, gồm 41 phần, hụi lần đầu vào ngày 25/10/2015âl bà là chủ và bà A1 là hụi viên như bà A1 đã trình bày. Ở dây hụi này bà A1 đã hốt hụi ở lần hụi hụi thứ 5, sau đó đóng hụi chết đến lần hụi hụi thứ 12 thì hông đóng hụi chết nữa và tại phiên tòa bà A2 cho rằng đến hôm nay bà A2 đã choàng hụi chết cho bà A1 là 10 lần với số tiền 10.000.000đ, hiện còn 19 lần hụi chưa hụi. Nay bà A2 hông đồng hoàn trả số tiền hụi 30.000.000đ theo yêu cầu của bà A1.
Chị Võ Thị Bích T trình bày:
Vào ngày 20/6/2015âl, chị có tham gia 1 phần trong dây hụi 1.000.000đ do bà A2 làm chủ như bà A2 đã trình bày. Phần hụi của chị trong danh sách hụi có tên N.T là vì chị và anh N là con trai của bà A1 có mối quan hệ tình cảm với nhau. Sau hi tham gia hụi, chị đóng hụi trực tiếp cho bà A2, bà A1 và chị là hai phần hụi hoàn toàn độc lập trong dây hụi này. Khoảng tháng 3/2016âl chị hốt hụi, bà A2 giao hụi trực tiếp cho chị và chị đã thực hiện nghĩa vụ đóng hụi chết cho bà A2 đúng thỏa thuận. Nhưng đến hi hụi còn 3 lần nữa là mãn thì bà A2 không gôm hụi đối với chị và nói với chị là hông cần phải đóng hụi chết nữa. Chị cho rằng lời trình bày của bà A2 về việc bà A1 tham gia 02 phần trong dây hụi 1.000.000đ này trong đó có phần hụi tên là N.T là hoàn toàn không đúng sự thật, ở dây hụi này chị còn nợ bà A2 3.000.000đ tiền hụi chết. Do bà A1 đồng cấn trừ số tiền hụi 3.000.000đ mà chị đang nợ bà A2 vào số tiền hụi 33.000.000đ mà bà A2 đang nợ bà A1 và chị thống nhất cấn trừ nợ như bà A1 đã trình bày. Chị sẽ có trách nhiệm trả số tiền 3.000.000đ cho bà A1, hông yêu cầu giải quyết số tiền 3.000.000đ mà chị nợ lại bà A1 trong vụ án này.
Anh Dương Thanh N trình bày:
Anh và chị Võ Thị Bích T có quan hệ tình cảm với nhau, anh có biết việc mẹ anh là bà A1 và chị T có tham gia chơi hụi do bà A2 làm chủ, nhưng hông biết rõ việc tham gia hụi của bà A1 và chị T, có vài lần anh nhận đi đóng hụi dùm bà A1 và chị T, anh hông nhận tiền hụi từ bà A2 như bà A2 đã trình bày. Anh cho rằng việc giao ết hụi là giữa bà A1, chị T và bà A2 không liên quan gì đến anh.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 35/2017/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Việt A1.
2. Buộc bà Sa Tú A2 hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Việt A1 nợ hụi với số tiền là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) ở dây hụi khụi ngày 20/6/2015âl do bà Sa Tú A2 làm chủ hụi và bà Nguyễn Thị Việt A1 là hụi viên.
Khi có đơn yêu cầu thi hành án của bà A1 trường hợp bà A2 chậm trả tiền thì bà A2 còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
3. Về án phí:
3.1. Bà Sa Tú A2 phải chịu 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng)án phí dân sự sơ thẩm (bà A2 chưa nộp).
3.2. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Việt A1 tiền tạm ứng án phí đã nộp là 825.000đ (tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 08965 ngày 19/01/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền háng cáo và thời hạn theo luật định. Ngày 05/9/2017 bà Sa Tú A2 có đơn háng cáo hông đồng trả cho bà A1 30.000.000đ, bà cho rằng giữa hai bên đã cấn trừ sau khi bà A1 không thực hiện nghĩa vụ đóng hụi chết cho bà ở dây hụi 1.000.000đ một tháng hụi 1 lần bà A1 còn nợ lại 29 lần hụi chết chưa đóng.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà A2 vẫn giữ yêu cầu háng cáo hông đồng trả cho bà A1 30.000.000đ.
Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu iến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn háng cáo của A2 giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Ngày 20/6/2015âl bà A2 có làm chủ dây hụi 1.000.000đ, gồm 36 phần, hụi nữa tháng hụi một lần và trong danh sách hụi có ghi một phần tên chị S (tức là bà A1), một phần ghi tên N.T là thật, được các đương sự thừa nhận.
Sau hi tham gia dây hụi khụi ngày 20/6/2015âl do bà A2 làm chủ, bà A1 đã đóng hụi cho bà A2 được 33 lần, ở lần hụi hụi thứ 34 bà A1 bỏ thăm nhưng hông hốt hụi được do có người hác bỏ hụi cao hơn, bà A2 hông góp hụi bà A1 ở những lần hụi hụi tiếp theo, hông cho bà A1 hốt hụi, hụi đã mãn vào tháng 12/2016âl nhưng đến nay bà A2 cũng hông hoàn trả số tiền mà bà A1 đã đóng cho bà A2. Nay bà A1 đồng cấn trừ số tiền hụi 3.000.000đ mà chị T còn nợ hụi chết chưa đóng cho bà A2 vào số tiền hụi 33.000.000đ mà bà A2 còn nợ lại bà A1, nên bà A1 yêu cầu bà A2 hoàn trả tiền hụi còn nợ lại cho bà là 30.000.000đ.
Bà A2 thừa nhận bà A1 có đóng hụi cho bà được 33 lần và dây hụi đã mãn vào tháng 12/2016âl như bà A1 đã trình bày, nhưng bà A2 cho rằng sau hi bà A1 đóng hụi cho bà được 33 lần, bà A2 nhận thấy bà A1 hông hả năng đóng hụi chết tiếp tục ở phần hụi ghi tên N.T với số tiền hụi chết còn nợ là 3.000.000đ và phần hụi chết ở dây hụi 1.000.000đ hụi ngày 25/10/2015âl với số tiền hụi chết bà A1 còn nợ là 29.000.000đ (dây hụi này bà A2 đã choàng 10 lần hụi chết với số tiền 10.000.000đ, hiện còn 19 lần hụi chưa hụi) nên bà A2 hông cho bà A1 hốt hụi ở lần hụi hụi thứ 34, 35 và bà A2 cũng hông góp hụi đối với bà A1 mà bà tự đóng thay phần hụi của bà A1 và để bà A2 hốt hụi chót ở lần hụi hụi thứ 36. Bà A2 không giao trả 33 lần hụi mà bà A1 đã đóng cho bà theo hai bên thống nhất với số tiền 33.000.000đ cho bà A1 mà bà tự viết giấy tay cấn trừ 33 lần hụi mà bà A1 đã đóng cho bà vào 02 phần hụi chết mà bà A1 nợ bà A2 như đã trình bày với số tiền 32.000.000đ (trong đó 3.000.000đ tiền hụi chết chị T chưa đóng, 29.000.000đ tiền hụi chết của dây hụi hụi ngày 25/10/2015âl, tổng cộng là 32.000.000đ) và bà gửi èm 1.000.000đ tiền mặt xem như giữa bà A2 và bà A1 không nợ gì với nhau, nhưng bà A1 hông đồng. Nay bà A2 hông đồng hoàn trả 30.000.000đ tiền hụi theo yêu cầu của bà A1.
[2] Xét thấy bà A1 đã đóng hụi cho bà A2 33 lần, với số tiền là 33.000.0000đ mà hai bên đã thống nhất, nhưng bà A2 tự ngưng hông góp hụi tiếp tục vì bà cho rằng bà A2 hông có đủ hả năng chơi hụi tiếp tục và bà giữ phần tiền bà A1 đã đóng hụi 33 lần để thực hiện nghĩa vụ của bà A1, hiện dây hụi đã mãn vào tháng 12/2016âl và đến nay bà A2 vẫn chưa hoàn trả 33.000.000đ tiền hụi cho bà A1, nên việc bà A1 yêu cầu bà A2 hoàn trả 33.000.000đ là phù hợp với hoản 1 Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005.
[3] Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa bà A1 đồng cấn trừ số tiền hụi 3.000.000đ mà chị T nợ hụi chết chưa đóng cho bà A2 vào số tiền hụi 33.000.000đ mà bà A2 đang nợ bà A1, nên bà A1 yêu cầu bà A2 hoàn trả tiền hụi còn nợ lại là 30.000.000đ là có căn cứ. Việc bà A2 yêu cầu cấn trừ số tiền hụi 29.000.000đ mà bà A1 đang nợ bà A2 ở dây hụi hụi ngày 25/10/2015 âl việc cấn trừ này không được bà A1 đồng. Tuy nhiên số tiền hụi 29.000.000đ mà bà A1 đang nợ bà A2 là 1 dây hụi hác và hiện tại dây hụi hụi ngày 25/10/2015âl vẫn chưa mãn hụi nên việc bà A2 đề nghị cấn trừ số tiền hụi vào các hoản trên là không phù hợp nên hông được chấp nhận.
Do đó, án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu của bà A1 buộc bà A2 phải trả cho bà A1 30.000.000đ là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử hông chấp nhận đơn kháng cáo của bà A2 giữ nguyên bản án sơ thẩm
Do bản án sơ thẩm được giữ nguyên nên bà A2 phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm theo quy định tại hoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn háng cáo của bà A2 giữ nguyên bản án sơ thẩm. xét đề nghị của đại diện Viện iểm sát là phù hợp pháp luật nên chấp nhận.
Các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ hoản 1 Điều 308; Khoản 1 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; hoản 1 Điều 479 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận đơn háng cáo của bà Sa Tú A2.
2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 35/2017/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện L.
Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Việt A1.
Buộc bà Sa Tú A2 hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Việt A1 nợ hụi với số tiền là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) ở dây hụi khụi ngày 20/6/2015al do bà Sa Tú A2 làm chủ hụi và bà Nguyễn Thị Việt A1 là hụi viên.
Khi có đơn yêu cầu thi hành án của bà A1 trường hợp bà A2 chậm trả tiền thì bà A2 còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
3. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Bà Sa Tú A2 phải chịu 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (bà A2 chưa nộp).
Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Việt A1 tiền tạm ứng án phí đã nộp là 825.000đ (tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 08965 ngày 19/01/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.
- Án phí phúc thẩm: Bà Sa Tú A2 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm, được hấu trừ vào tiền tạm ứng án phí háng cáo theo biên lai thu số 16630 ngày 06/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L ( bà A2 đã nộp xong án phí phúc thẩm).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 317/2017/DS-PT ngày 13/12/2017 về tranh chấp hợp đồng hụi
Số hiệu: | 317/2017/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về