Bản án 313/2021/DSPT ngày 27/05/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 313/2021/DSPT NGÀY 27/05/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2020/TLPT-DS ngày 04 tháng 01 năm 2021về tranh chấp“Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 23/11/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:190/2021/QĐPT-DS ngày 19 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1956; (có mặt).

Địa chỉ: Số …, ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Bùi Trọng Hiển, Đoàn luật sư tỉnh Bình Dương; (có mặt).

2. Bị đơn: Trường tiểu học X Địa chỉ: Xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Anh T, chức vụ: Hiệu trưởng Trường tiểu học X; (có mặt).

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1951.

3.2. Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1976.

3.3. Nguyễn Minh L, sinh năm 1977.

3.4. Nguyễn Minh L1, sinh năm 1979.

3.5. Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1981.

3.6. Nguyễn Thành L, sinh năm 1987.

Cùng địa chỉ: Tổ x, ấp Tân H, xã An H, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

3.7. Ông Tạ Văn S, sinh năm 1947;

Địa chỉ: Ấp Phú Th, xã Tân Nhuận Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

3.8. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1951;

Địa chỉ: Ấp 2, xã Mỹ H, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

3.9. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1953;

Địa chỉ: Tổ x, ấp Tây M, xã Lang M, huyệ n Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

3.10. Ông Nguyễn Minh D, sinh năm 1962;

Địa chỉ: Tổ xx, ấp Tân H, xã An H, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

- Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị Kim L, Nguyễn Minh L, Nguyễn Minh L1, Nguyễn Thị Bích L, Nguyễn Thành L, Tạ Văn S, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị H, Nguyễn Minh D là ông Nguyễn Minh H, sinh năm: 1956; (Có mặt)

3.11. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn D, Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp; (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Số …, đường 30/4, Phường x, thành phố Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

3. 12. Ủy ban nhân dân xã An H;

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn B, Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã An Hiệp; (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Tân H, xã An H, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

4. Người kháng cáo:nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn ông Nguyễn Minh H đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị Kim L, Nguyễn Minh L, Nguyễn Minh L1, Nguyễn Thị Bích L, Nguyễn Thành L, Tạ Văn S, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị H, Nguyễn Minh D trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cha ông tên là Nguyễn Văn Tr, mẹ ông là Lê Thị B tạo lập. Năm 1970 cha mẹ ông cho chính quyền chế độ cũ mượn để cất hai căn phòng học cho học sinh tiểu học. Năm 1981 Hiệu trưởng Trường Tiểu học X lúc đó là ông Nguyễn Quang S cùng với Ủy ban nhân dân (UBND) xã An Hiệp đến nhờ mẹ ông cho mượn đất để cất thêm phòng học cho đủ năm phòng học cho học sinh cấp một, với điều kiện là mẹ ông được UBND xã An Hiệp trừ thuế 3000m2 đt nông nghiệp hằng năm. Ngoài ra gia đình ông không có ai chuyển quyền sử dụng đất dưới bất cứ hình thức nào để xây dựng Trường tiểu học. Ngày 21/7/1995 UBND Tỉnh cấp giấy chứng nhận QSD đất cho Trường Tiểu học X là không đúng theo quy định của pháp luật, không cho gia đình ông biết, vì phần đất này có tranh chấp, không đúng nguồn gốc, không tiến hành đo đạc và những hộ lân cận không có ký giáp ranh. Ông đã nhiều lần khiếu nại đến UBND Tỉnh để yêu cầu trả lại 196m2 đt cho gia đình ông vì hiện nay Trường Tiểu học X đã dời đi nơi khác. Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh có mời ông đến để giải quyết nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.Hiện ông đang quản lý và sử dụng phần đất tranh chấp nhưng Trường Tiểu học X đứng tên. Nay ông yêu cầu Tòa án buộc Trường Tiểu học X trả lại QSD đất diện tích 196m2, qua đo đạc thực tế diện tích 222,4m2thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3 đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp cho gia đình ông.

- Bị đơn Trường tiểu học X do ông Lê Anh T trình bày: Khi ông về tiếp nhận Trường tiểu học X đã được xây dựng và đang sử dụng tại phần đất đang tranh chấp hiện nay, đến năm 2012 trường học đã dời đi nơi khác và không còn sử dụng đất này. Năm 2015, Phòng giáo dục huyện Châu Thành làm văn bản tường trình gửi UBND huyện Châu Thành đề nghị tách thửa đất đang tranh chấp giao cho UBND Xã quản lý, sau khi Ủy ban thống nhất đồng ý thì Phòng Giáo dục yêu cầu Trường học giao giấy đất về Phòng Tài nguyên và Môi trường để tiến hành thủ tục tách thửa, nhưng do lúc đó ông H có đơn khiếu nại phần đất này nên thủ tục tách thửa đất chưa xong. Nay Trường tiểu học X không đồng ý trả lại diện tích đất theo yêu cầu của ông H. Hiện phần đất trên trường đang đứng tên QSD đất.

- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

+ Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp vắng mặt, nhưng có văn bản trình bày:Việc cấp giấy chứng nhận QSD đất cho Trường tiểu học X là đúng theo trình tự, thủ tục và đối tượng sử dụng đất theo quy định tại Quyết định số 201- QĐ/ĐKTK ngày 14/7/1989 của Tổng cục quản lý ruộng đất, quy định cấp giấy chứng nhận QSD đất và Thông tư số 302 TT/ĐKTK ngày 28/10/1989 của Tổng cục quản lý ruộng đất hướng dẫn thi hành quyết định cấp giấy chứng nhận QSD đất. Về hình thể, kích thướt thửa đất khi xác lập thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất cho Trường tiểu học X được xác định trên bản đồ đo đạc điều vẽ từ không ảnh theo Chỉ thị số 299/Tgg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ (bản đồ 299) quy định về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H, UBND Tỉnh đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

+ Ủy ban nhân dân xã An Hiệp vắng mặt nhưng có văn bản trình bày:Việc UBND Tỉnh cấp giấy chứng nhận QSD đất diện tích 196m2 thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3 đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp cho Trường tiểu học X là đúng theo quy định của pháp luật. Hiện Trường Tiểu học X đã di dời sang điểm mới, UBND xã An Hiệp có kế hoạch sử dụng phần đất tranh chấp để làm sân thể thao và làm nơi tập luyện của câu lạc bộ dưỡng sinh ấp Tân Hòa. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H, UBND xã An Hiệp đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Các đương sự thống nhất biên bản xem xét thẩm định ngày 14/3/2017, thẩm định bổ sung ngày 14/8/2020, biên bản định giá ngày 15/8/2017 và sơ đồ đo đạc phần đất đang tranh chấp ngày 07/8/2017 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Châu Thành.

- Tại bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2020, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh H yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Trường Tiểu học X đứng tên thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3 diện tích đo đac thực tế là 222,4m2 đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp và buộc Trường Tiểu học X trả đất lại cho gia đình ông H.

2. Giữ nguyên hiện trạng diện tích qua đo đạc thực tế là 222,4m2 thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành do Trường Tiểu học X đứng tên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp vào ngày 21/7/1995, số vào sổ 01605QSDĐ/B3 cho Trường Tiểu học X quản lý sử dụng (kèm theo sơ đồ đo đạc ngày 07/8/2017 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Châu Thành).

3. Buộc ông Nguyễn Minh H phải di dời 07 cây dừa (04 cây trồng năm 2018, 03 cây trồng năm 2019) để trả lại đất cho Trường Tiểu học X.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phố tố tụng, thi hành án, quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 01-12-2020,nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn – ông Nguyễn Minh H cùng luật sư trình bày: nguồn gốc đất được cấp cho trường tiểu học X là của cha tôi, thực tế cha tôi chỉ cho nhà trường mượn để cất phòng học, việc cơ quan có thẩm quyền có tờ trình cho rằng cha tôi hiến đất là không có căn cứ, không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện cha tôi đã hiến đất, Ủy ban căn cứ tờ trình này để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhà trường là không đúng luật, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung kháng cáo: Các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện không đủ cơ sở chứng minh rằng gia đình ông H có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với phần đất được cấp giấy chứng nhận cho trường tiểu học An Hiệp. Đề nghị HĐXX bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu và thẩm tra các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét về nội dung vụ án như sau:

[1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Minh H làm trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

[2] Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Theo hồ sơ đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 28/3/1994 của Trường Tiểu học X xác định diện tích 196m2, qua đo đạc thực tế là 222,4m2,thửa 595, tờ bản đồ số 3 là do ông Nguyễn Văn Tr là cha của ông H hiến đất cho Trường Tiểu học X và giấy xác minh nguồn gốc đất xây dựng Trường Tiểu học X ngày 30/5/1995 cũng xác định diện tích đất trên nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn Tr (tự Bảy Râu) đã hiến đất cho chính quyền để xây dựng trường học nhằm phục vụ cho lợi ích công cộng và tại Công văn số 124/UBND-TCD-NC ngày 09/4/2020 của Ủy ban nhân dân Tỉnh xác định:

Ngày 28/3/1994, Trường Tiểu học X có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đối với các thửa 1391, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.018m2; thửa số 2213, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.000m2 do Đình Tân Lễ và Đình Hội Xuân cho xây dựng; thửa số 595, tờ bản đồ số 3, diện tích 196m2 do ông Nguyễn Văn Tr hiến, đất tọa lạc tại ấp An Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành được Hội đồng đăng ký đất đai xã xác nhận, đề nghị cấp.

Ngày 21/7/1995, Ủy ban nhân dântỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số vào sổ 01605QSDĐ/B3 cho Trường Tiểu học X với tổng diện tích 2.214m2 gm 03 thửa: thửa 1391, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.018m2; thửa số 595, tờ bản đồ số 3, diện tích 196m2; thửa số 2213, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.000m2 tọa lạc tại ấp An Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H cho rằng gia đình ông không có hiến đất hay chuyển quyền sử dụng đất dưới bất cứ hình thức nào để xây dựng Trường tiểu học. Ngày 21/7/1995 UBND tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường Tiểu học X là không đúng theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:

Phía nguyên đơn không xuất trình được giấy tờ gì thể hiện gia đình ông được cấp quyền sử dụng đất hợp pháp đối với phần đất nói trên, trường hợp đây là đất gia đình ông thực tế sử dụng từ trước, các tài liệu có trong hồ sơ và sự thừa nhận của nguyên đơn cũng thể hiện phía nguyên đơn không quản lý, sử dụng phần đất này từ trước 1975, qua các thời kỳ thực hiện các chính sách đất đai của nhà nước, gia đình ông cũng không kê khai sử dụng đối với phần đất này, không xuất trình được giấy cho mượn đất.

Quá trình gia đình bà Bông (mẹ ông H) đi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất vào năm 1991 đều xác định vị trí tứ cận từng thửa đất trong đó có thửa 594 tiếp giáp với thửa 595 mà Trường Tiểu học X đang sử dụng, việc ông H nại ra là phần thửa đất 594 là nằm chung với diện tích của Trường nên gia đình ông không khiếu nại, nhưng ông H không có chứng cứ giấy tờ gì chứng minh.

Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Bông là mẹ ông H tổng diện tích là 15.452m2 gồm các thửa: (Thửa 598 diện tích 750m2 loi đất thổ; thửa 597 diện tích 956m2 loi đất CLN; thửa 594 diện tích 1.249m2 loi đất CLN; thửa 799 diện tích 3.652m2 loi đất Q; thửa 1179 diện tích 8.845m2 loại đất Q).

Thời gian này bà Bông được cấp đất bà cũng không đi kê khai diện tích đất mà Trường Tiểu học X đang sử dụng. Trường Tiểu học X đi kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp đất vào năm 1995, là thời điểm cấp sau khi bà Bông - mẹ ông H đi kê khai đăng ký các thửa đất được cấp nói trên. Việc hồ sơ cấp đất xác định đây là đất ông Trọng hiến cho nhà trường nhưng không có giấy tờ chứng minh là chưa đủ căn cứ, tuy nhiên nguyên đơn cũng không có chứng cứ thể hiện phần đất này trước đây thuộc quyền sử dụng của gia đình mình và cũng không có quá trình sử dụng đất, không đăng ký kê khai đối với phần đất này theo luật định, như vậy phía nguyên đơn sẽ không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Điều 100 Luật đất đai 2013 và không có quyền sử dụng đối với phần đất này.

Nhà trường đã có quá trình sử dụng đất liên tục từ năm 1971 đến nay.Việc Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 595, tờ bản đồ số 3, tọa lạc xã An Hiệp cho Trường Tiểu học X là đúng theo trình tự, thủ tục và đối tượng sử dụng đất theo quy định tại Quyết định số 201- QĐ/ĐKTK ngày 14/7/1989 của Tổng Cục quản lý ruộng đất, quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Thông tư số 302 TT/ĐKTK ngày 28/10/1989 của Tổng Cục Quản lý ruộng đất hướng dẫn thi hành Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Về hình thể, kích thước thửa đất khi xác lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trường Tiểu học X được xác định dựa trên bản đồ đo đạc đều vẽ từ không ảnh theo Chỉ thị số 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ (bản đồ 299) quy định về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước do đo có sự sai lệch nhất định giữa diện tích được cấp và diện tích thực tế sử dụng.

Theo biên bản xem xét thẩm định ngày 14/8/2020, trên phần diện tích đất đang tranh chấp là khoảng đất trống trường chưa có kế hoạch xây dựngnhưng ông H tự vào bao chiếm và trồng 07 cây dừa (04 cây trồng năm 2018, 03 cây trồng năm 2019) nên ông H có trách nhiệm di dời để trả lại đất cho Trường Tiểu học X.

Từ những phân tích trên, kháng cáo của ông Nguyễn Minh H yêu yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Trường Tiểu học X đứng tên thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3 diện tích 196m2, diện tích thực tế là 222,4m2 đất tọa lạc tại ấp An Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp và buộc Trường Tiểu học X trả đất lại cho gia đình ông là không có căn cứ để chấp nhận.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận, ông H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo luật định tuy nhiên do ông H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Căn cứ Điều 26; Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 5; Điều 95; Điều 99; Điều 100; Điều 179; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

*Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Minh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh H yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Trường Tiểu học X đứng tên thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3 diện tích đo đac thực tế là 222,4m2 đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp và buộc Trường Tiểu học X trả đất lại cho gia đình ông H.

2. Giữ nguyên hiện trạng diện tích qua đo đạc thực tế là 222,4m2 thuộc thửa 595, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại ấp Tân Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành do Trường Tiểu học X đứng tên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp cấp vào ngày 21/7/1995, số vào sổ 01605QSDĐ/B3 cho Trường Tiểu học X quản lý sử dụng (kèm theo sơ đồ đo đạc ngày 07/8/2017 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Châu Thành).

3. Buộc ông Nguyễn Minh H phải di dời 07 cây dừa (04 cây trồng năm 2018, 03 cây trồng năm 2019) để trả lại đất cho Trường Tiểu học X.

4. Về chi phí tố tụng và chi phí xem xét thẩm định và định giá:ông Nguyễn Minh H đã tạm ứng và đã chi xong.

5. Về án phí sơ thẩm:

- Miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Minh H, ông H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 490.000đ theo biên lai thu số 0009967 ngày 19/02/2020 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp.

- Trường Tiểu học X không phải chịu tiền án phí sơ thẩm.

*Án phí dân sự phúc thẩm: ông Nguyễn Minh H được miễn nộp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 313/2021/DSPT ngày 27/05/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:313/2021/DSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;