TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Y, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 312/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2018 VỀ TRANH CHẤP XÁC ĐỊNH CHA CHO CON
Trong ngày 03 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí M xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2018 về việc “Tranh chấp về xác định cha cho con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim H, sinh năm 1970 (Xin vắng mặt)
Thường trú: 128 đường T, Phường 21, quận B, Thành phố Hồ Chí M.
2. Bị đơn: Ông Phạm Công C, sinh năm 1965 (Xin vắng mặt)
Thường trú: 8/1 (trệt) đường L, Phường 10, Quận Y, Thành phố Hồ Chí M
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 18/5/2018, bản tự khai ngày 30/5/2018, nguyên đơn là bà Phạm Thị Kim H trình bày:
Ngày 05/9/2003, bà sinh cháu Phạm Hoàng Công M tại bệnh viện Đại học Y Dược, quận T, Thành phố Hồ Chí M. Vì một vài lý do cá nhân nên bà không thể đi làm giấy khai sinh cho cháu M được nên khi đó bà có nhờ anh trai là ông Phạm Công C đi làm giấy khai dùm. Khi làm giấy khai sinh, ông C đã khai ông và vợ là bà Nguyễn Thị Mai H là cha mẹ của cháu M (theo bản sao trích lục khai sinh số: 383/TLKS-BS do Ủy ban nhân dân Phường 10, Quận Y, Thành phố Hồ Chí M cấp ngày 27/12/2016). Từ khi sinh ra đến nay, cháu M vẫn do chính bà chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà nghĩ giấy khai sinh chỉ thể hiện về mặt giấy tờ, không quan trọng nên không đi đính chính lại. Hiện nay khi đi làm thủ tục nhập học cho cháu M thì lại cần giấy khai sinh nhưng trên đó lại không thể hiện bà là mẹ của cháu M nên khó khăn cho việc làm thủ tục.
Căn cứ vào quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 235/2017/QĐST-HNGĐ của Tòa án ngày 22/6/2017 về việc bà được quyền liên hệ với các cơ quan chức năng để làm thủ tục thay đổi, điều chỉnh, đăng ký tên mẹ đẻ của cháu M trên giấy khai sinh và các loại giấy tờ khác, bà đã tiến hành thủ tục thay đổi, điều chỉnh khai sinh cho cháu M nhưng cơ quan có thẩm quyền chỉ đồng ý tiến hành thay đổi tên mẹ từ Nguyễn Thị Mai H sang Phạm Thị Kim H mà không xóa tên cha là ông Phạm Công C với lý do quyết định của Tòa án không thể hiện rõ vấn đề này.
Nay, theo kết quả xét nghiệm ADN do Công ty Cổ phần Công nghệ Sinh học Bionet Việt Nam cấp ngày 10/3/2018 thể hiện ông C không phải cha sinh học của cháu M nên bà đề nghị Tòa án xác định ông Phạm Công C không phải là cha đẻ của cháu Phạm Hoàng Công M để bà có thể liên hệ với các cơ quan chức năng làm thủ tục thay đổi, điều chỉnh giấy khai sinh và các loại giấy tờ khác phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.
Tại bản tự khai ngày 30/5/2018, bị đơn là ông Phạm Công C trình bày:
Ông là anh ruột của bà Phạm Thị Kim H. Thời điểm bà H sinh cháu Phạm Hoàng Công M vào năm 2003, bà có nhờ vợ cH ông đi làm giấy khai sinh cho cháu M và đứng tên là cha mẹ trên giấy khai sinh. Ông xác nhận bà H là mẹ đẻ của cháu M, vợ cH ông chỉ đứng tên dùm là cha mẹ trên giấy khai sinh. Ông hoàn toàn đồng ý với kết quả xét nghiệm ADN do Công ty Cổ phần Công nghệ Sinh học Bionet Việt Nam cấp ngày 10/3/2018 xác định ông không phải cha đẻ của cháu M vì đây là sự thật.
Tuy nhiên, ông không đồng ý đối với yêu cầu của bà Phạm Thị Kim H đề nghị Tòa án xác định ông không phải là cha đẻ của cháu Phạm Hoàng Công M vì ông đã đứng tên làm cha của cháu M một thời gian dài nên có nhiều tình cảm với cháu và vẫn mong muốn được đứng tên là cha của cháu M trên giấy khai sinh.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn là bà Phạm Thị Kim H khởi kiện, yêu cầu Tòa án xác định ông Phạm Công C không phải là cha đẻ của trẻ Phạm Hoàng Công M nên đây là vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận Y theo quy định tại khoản 4 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về tố tụng:
[3.1] Nguyên đơn và bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[3.2] Do Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ nên căn cứ Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự, vụ án không thuộc trường hợp Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa.
[4] Về yêu cầu của đương sự:
[4.1] Căn cứ bản sao trích lục khai sinh số: 383/TLKS-BS do Ủy ban nhân dân Phường 10, Quận Y, Thành phố Hồ Chí M cấp ngày 27/12/2016 thì họ và tên người cha của trẻ Phạm Hoàng Công M, sinh ngày 05/9/2003 là ông Phạm Công C. Nay, bà Phạm Thị Kim H yêu cầu Tòa án xác định ông C không phải là cha đẻ của trẻ M.
[4.2] Ngày 14/6/2018, Tòa án đã tiến hành phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, ông C đã được bà H cung cấp kết quả xét nghiệm ADN do Công ty Cổ phần Công nghệ Sinh học Bionet Việt Nam cấp ngày 10/3/2018 thể hiện ông Phạm Công C không phải là cha sinh học (cha đẻ) của trẻ Phạm Hoàng Công M. Tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự có quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng M”. Ông C thừa nhận kết quả xét nghiệm ADN do bà H cung cấp, do vậy, có căn cứ xác định ông C không phải cha sinh học (cha đẻ) của trẻ Phạm Hoàng Công M, sinh ngày 05/9/2003.
[4.3 ] Bà Phạm Thị Kim H được quyền liên hệ với cơ quan chức năng có thẩm quyền để điều chỉnh lại giấy khai sinh và các giấy tờ khác có liên quan đến nhân thân cho trẻ Phạm Hoàng Công M.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, đây là quan hệ tranh chấp xin xác định cha mẹ cho con chưa thành niên và thuộc trường hợp được miễn án phí. Do vậy, cần hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho bà H.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 21; khoản 4 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 267; Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 88, Điều 90, Điều 91, Điều 101 và Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Luật hộ tịch năm 2014;
Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Phạm Thị Kim H.
Xác định ông Phạm Công C, sinh năm 1965, thường trú tại 8/1 (trệt) đường L, Phường 10, Quận Y, Thành phố Hồ Chí M không phải là cha đẻ của trẻ Phạm Hoàng Công M, sinh ngày 05/9/2003.
Bà Phạm Thị Kim H được quyền liên hệ với cơ quan chức năng có thẩm quyền để điều chỉnh lại giấy khai sinh và các giấy tờ khác có liên quan đến nhân thân cho trẻ Phạm Hoàng Công M.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Phạm Thị Kim H được miễn tiền án phí giải quyết vụ án.
Hoàn tiền tạm ứng án phí cho bà Phạm Thị Kim H số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AG/2014/0006255 ngày 18/5/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận Y, Thành phố Hồ Chí M.
3. Về quyền kháng cáo: Bà Phạm Thị Kim H và ông Phạm Công C có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt, niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án 312/2018/HNGĐ-ST ngày 03/08/2018 về tranh chấp xác định cha cho con
Số hiệu: | 312/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/08/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về