TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 124/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP XÁC ĐỊNH CHA CHO CON
Ngày 30 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 156/2016/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2016 về tranh chấp về xác định cha cho con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1250/2017/QĐXX-ST ngày 31 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Lương Văn S, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đông Trên, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
- Bị đơn: Chị Trần Thị M, sinh năm 1988; địa chỉ: Số 159/239, đường Lê Lợi, phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh H, sinh năm 1971; địa chỉ: Số nhà 2/14 hẻm 11, ngõ 645, đường Giới Thọ, cụm 013, phường Đại Vinh, thành phố Bát Đức, huyện Đào Viên, Đài Loan. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và các bản tự khai, nguyên đơn anh Lương Văn S trình bày:
Chị Trần Thị M kết hôn với anh H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 28 tháng 11 năm 2014. Sau khi kết hôn được một thời gian ngắn thì anh H trở về Đài Loan và không còn liên lạc gì với chị M. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống ly thân mỗi người một nước không có sự quan tâm chia sẻ với nhau về tình cảm và kinh tế. Thời gian sống ly thân chị M và anh Lương Văn S có quan hệ tình cảm nhau và sinh được 01 con chung tên là Lương Phương Thảo (tên theo giấy chứng sinh) sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016. Anh Lương Văn S đề nghị Tòa án công nhận anh là cha đẻ của con chị M sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016.
Bị đơn chị Trần Thị M trình bày: Chị và anh H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 28 tháng 11 năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống ở Việt Nam được khoảng 2 tuần thì anh H trở về Đài Loan. Từ đó đến nay anh H không về Việt Nam thăm chị M, hai vợ chồng không có sự liên lạc, quan tâm chăm sóc, chia sẻ tình cảm. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân chị có quan hệ tình cảm với anh Lương Văn S và sinh được 01 con chung dự định đặt tên là Lương Phương Thảo sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 theo Giấy chứng sinh số 003101 cấp ngày 13/3/2016 tại Bệnh viện phụ sản Hải Phòng. Chị xác định đây là con chung của chị và anh Lương Văn S nên chị đề nghị Tòa án xác định anh Lương Văn S là bố đẻ của cháu Lương Phương Thảo (tên theo giấy chứng sinh) Tại phiên tòa: Anh H vắng mặt đã được Tòa án ủy thác tư pháp để tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về thời gian giải quyết vụ án nhưng đến nay Tòa án vẫn không nhận được kết quả ủy thác tư pháp cũng không nhận được văn bản trình bày ý kiến của anh H.
Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:
Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xét xử vắng mặt bị đơn anh H theo đúng quy định tại điểm c khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung khởi kiện: Anh Lương Văn S đề nghị xác định cháu Lương Phương Thảo (tên dự định đặt theo giấy chứng sinh) sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 do chị Trần Thị M sinh ra là con đẻ của anh Lương Văn S, chị M cũng công nhận cháu Lương Phương Thảo (tên theo giấy chứng sinh) sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 do chị sinh ra là con đẻ của anh S, Tại kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận anh Lương Văn S là bố đẻ của cháu bé dự định đặt tên Lương Phương Thảo (độ tin cậy: P1> 99,99%). Như vậy, có căn cứ xác định anh Lương Văn S là bố đẻ của cháu Lương Phương Thảo (tên theo giấy chứng sinh) sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 do chị Trần Thị M sinh ra.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 101, Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xác định cháu bé dự định đặt tên là Lương Phương Thảo sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 do chị Trần Thị M sinh ra là con của anh Lương Văn S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp xác định cha cho con. Anh H là người nước ngoài, theo quy định tại khoản 4 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
[2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án đã ủy thác cho cơ quan có thẩm quyền của Đài Loan để tống đạt thông báo thụ lý vụ án và lấy lời khai đối với anh H nhưng không nhận được kết quả ủy thác tư pháp, đến ngày mở phiên tòa anh H không có mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án đã hoãn phiên tòa, sau khi hoãn phiên tòa, Tòa án đã có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thông báo về việc thực hiện văn bản tố tụng của Tòa án cho anh H nhưng đến nay đã hết thời hạn 3 tháng mà Tòa án không nhận được văn bản trả lời của Bộ Tư pháp nên Tòa án xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại điểm c khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Xét yêu cầu xác định cha cho con của anh Lương Văn S: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, chị Trần Thị M kết hôn, có đăng ký kết hôn với anh H hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ngày 28 tháng 11 năm 2014. Sau khi kết hôn anh H về Đài Loan sinh sống bỏ mặc chị M. Trong thời gian sống ly thân chị M và anh Lương Văn S có quan hệ tình cảm nhau và sinh được 01 con chung tên là Lương Phương Thảo (tên theo giấy chứng sinh) sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016. Tại kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận anh Lương Văn S là bố đẻ của cháu bé dự định đặt tên Lương Phương Thảo (độ tin cậy: P1> 99,99%). Như vậy có đủ căn cứ xác định cháu bé có tên dự sinh Lương Phương Thảo sinh ngày 13-3-2016 do chị Trần Thị M sinh ra là con đẻ của anh Lương Văn S. Căn cứ Điều 89, 91 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lương Văn S.
[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 89, 91, 101, 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;khoản 4 Điều 28; khoản 3,Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 153; Điều 266; Điều 273; khoản 3 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 12 về án phí, lệ phí Toà án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lương Văn S.
1. Xác định anh Lương Văn S là cha đẻ của cháu Lương Phương Thảo (tên dự định đặt theo giấy chứng sinh số 003101 cấp ngày 13-3-2016 tại Bệnh viện phụ sản Hải Phòng) sinh ngày 13 tháng 3 năm 2016 do chị Trần Thị M sinh ra.
2. Về án phí và phí ủy thác tư pháp:
- Chị Trần Thị M phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Anh Lương Văn S phải chịu 150.000 đồng phí ủy thác tư pháp nhưng được trừ vào số tiền 150.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0008681 ngày 08 tháng 12 năm 2016 tại Cục Thi hành án Dân sự thành phố Hải Phòng. Anh S đã nộp đủ tiền phí ủy thác tư pháp.
3. Về quyền kháng cáo đối với bản án:
- Anh Lương Văn S, chị Trần Thị M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Anh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 124/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp xác định cha cho con
Số hiệu: | 124/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về