Bản án 31/2021/HSST ngày 29/04/2021 về tội môi giới mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 31/2021/HSST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2021/TLST-HS ngày 05/4/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo: Lê Thị H - Sinh ngày 26/3/1983. Tên gọi khác: không.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu S 2, xã H, huyện C, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: công giáo; Giới tính: Nữ; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Bố đẻ: Lê Văn Q, sinh năm 1940; Mẹ đẻ: Đặng Thị H, sinh năm 1942 CH: Đỗ Minh K (đã ly hôn). Bị cáo có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2008). Tiền sự, tiền án, nhân thân: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/01/2021, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 13/01/2021; hiện đang tại ngoại tại xã H, huyện C, tỉnh Phú Thọ, có mặt tại phiên tòa.

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1984 Địa chỉ: Khu Đ, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ - Anh Cao Huy C, sinh năm 1995 Địa chỉ: Khu Q, xã V, huyện C, tỉnh Phú Thọ - Chị Hg Thị H, sinh năm 1981 Địa chỉ: Khu T, xã S, huyện C, tỉnh Phú Thọ - Ông Lê Thư Q, sinh năm 1964 Địa chỉ: Khu Q 1, xã Y, huyện C, tỉnh Phú Thọ (Anh B, anh C, chị H, ông Q đều vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 07/01/2021, do đều có nhu cầu mua dâm nên Nguyễn Thanh B, SN 1984 ở khu Đ, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ cùng bạn là Cao Huy C, SN 1995 ở xã V, huyện C, tỉnh Phú Thọ đã rủ nhau đi mua dâm. B có quen biết Lê Thị H, SN 1983 ở khu S 2, xã H, huyện C, tỉnh Phú Thọ, qua quan hệ xã hội B biết được thông tin H có bán dâm nên B và C thống nhất để B gọi điện thoại cho H để hỏi việc mua dâm. Sau đó, B sử dụng mạng xã hội Zalo gọi điện cho H hỏi mua dâm và nói với H là B có đi cùng 01 người bạn nữa (tức là muốn mua dâm 02 người), H đồng ý. Sau đó, H đến quán cắt tóc của Hoàng Thị H1, SN 1981 ở khu T, xã S, huyện C, ở gần nhà H, để rủ H đi bán dâm (do H biết H1 đã ly hôn từ lâu và nghĩ H1 cũng có nhu cầu bán dâm). Tại đây, H đã rủ H1 đi bán dâm và nói sẽ được trả ít nhất là 1.000.000đ và H1 đồng ý. Sau đó H đi về nhà mình và gọi điện thoại lại cho B thống nhất với nhau tiền mua bán dâm với giá 2.000.000đ/1 người, hai người là 4.000.000đ, ngoài ra H xin thêm B tiền đi xe taxi là 500.000đ, B đồng ý và hẹn gặp nhau trước ở quán cà phê M tại Thị trấn C, huyện C vào khoảng 19 giờ cùng ngày. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì H và H1 tới Q cà phê M. Sau khi đợi được khoảng 20 phút do không thấy B đến nên H gọi điện thoại cho B thì thấy B bảo do đi làm về muộn nên không đi uống nước được. B bảo H đến Nhà nghỉ 999 thuộc khu Q 1, xã Y, huyện C do ông Lê Thư Q, sinh năm 1964 ở khu Q 1, xã Y, huyện C là chủ nhà nghỉ, để mua bán dâm luôn nên H và H1 lại đi ra Nhà nghỉ 999. Tại đây H đã thuê hai phòng là phòng 203, 204 của Nhà nghỉ rồi cùng H1 ngồi đợi B và C tại phòng 203 (ông Q không biết việc H thuê phòng để thực hiện hành vi mua bán dâm). Sau khi đợi đến khoảng gần 20 giờ 45 phút cùng ngày, do không thấy B đâu nên H đi xuống cổng Nhà nghỉ thì gặp B và C đi đến. Khi gặp nhau H nói đã lấy hai phòng là phòng 203 và phòng 204 rồi. B bảo C lên phòng 204 còn B và H lên phòng 203. Trên đường đi lên phòng 203, B đưa H tổng số tiền là 4.500.000đ trong đó 4.000.000đ là tiền B và C trả tiền mua dâm, còn 500.000đ là tiền taxi B cho H. Khi lên đến phòng 203, do H1 đang ở trong phòng nên H bảo H1 sang phòng 204 để bán dâm cho C (H không nói lại cho H1 biết việc B và C đã trả tiền mua dâm là 2.000.000đ/người và cũng chưa đưa tiền bán dâm cho H1). Nghe H nói vậy thì H1 sang phòng 204 và gặp C. H1 nói với C mình là bạn của H. Cả hai hiểu đây là người được H giới thiệu để mua - bán dâm nên ngay tại phòng 204 của nhà nghỉ, C và H1 đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục. Quá trình quan hệ tình dục, C sử dụng 01 bao cao su vỏ bao có ghi chữ “DUREX” có sẵn tại phòng 204 của nhà nghỉ. Đồng thời tại phòng 203, B và H cũng đã thực hiện hành vi mua bán dâm. Quá trình quan hệ tình dục B sử dụng 01 bao cao su, vỏ bao có ghi chữ “VIP” có sẵn tại phòng 203 nhà nghỉ. Đến 21 giờ 00 phút cùng ngày, khi tổ công tác Công an huyện Cẩm Khê phối hợp với Công an xã Y tiến hành kiểm tra Nhà nghỉ 999 thì phát hiện trong phòng 203 và 204 của nhà nghỉ 999 có 02 đôi nam nữ đang có hành vi mua bán dâm, cụ thể: tại phòng 203 Lê Thị H bán dâm cho Nguyễn Thanh B, tại phòng 204 Hoàng Thị H1 bán dâm cho Cao Huy C. Thu giữ tại tại nền phòng 203 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách trên có chữ “VIP”; thu giữ của H 01 điện thoại di động dạng Galaxy A51, nhãn hiệu Samsung màu đen đã cũ, bên trong lắp 01 sim và tiền ngân hàng Nhà nước số tiền 4.910.000đ. Thu giữ tại phòng 204 01 bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách trên có chữ “DUREX. Tại chỗ các đối tượng đã khai nhận hành vi mua bán dâm của mình, đồng thời cũng khai nhận việc H môi giới để H1 bán dâm cho C như đã trình bày ở trên. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng có mặt trình bày:

Bị cáo Lê Thị H thừa nhận ngày 07/01/2021, H có hành vi môi giới cho Hoàng Thị H bán dâm cho Cao Huy C với giá 2.000.000đ tại phòng 204, nhà nghỉ 999 ở khu Q 1, xã Y, huyện C, tỉnh Phú Thọ.

Bản cáo trạng số 19/CT-VKSCK -HS ngày 03/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Lê Thị H về tội “Môi giới mại dâm” quy định tại khoản 1 điều 328 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 328; Điểm i, s khoản 1 điều 51; Khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “ Môi giới mại dâm”. Xử phạt bị cáo H từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điểm a, b Khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2, Điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Đề nghị: Tịch thu sung quỹ nhà nước khoản tiền 4.500.000đ thu giữ của H là khoản thu lời bất chính do phạm tội mà có; Trả lại cho H số tiền 410.000đ không liên quan đến hành vi phạm tội; Tịch thu bán sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Garaxy A51- Samsung màu đen kèm 01 sim (trên sim có số 8984040800022154608) thu giữ của H; Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách có nhãn hiệu “VIP” thu giữ tại phòng 203 do B và H sử dụng và 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách có nhãn hiệu “DUREX” thu giữ tại phòng 204 do C và H sử dụng do không còn giá trị.

Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhất trí với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Thị H đã thừa nhận:

Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 07/01/2021, tại phòng 204, nhà nghỉ 999 ở khu Q 1, xã Y, huyện C, tỉnh Phú Thọ, Lê Thị H đã có hành vi môi giới để Hoàng Thị H bán dâm cho Cao Huy C với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng chẵn).

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa H toàn phù hợp với lời khai mà bị cáo khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; những người làm chứng, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra vụ án các tài liệu khác có trong hồ sơ và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Lê Thị H phạm tội “Môi giới mại dâm”, được quy định tại khoản 1 điều 328 Bộ luật hình sự;

[2.2]. Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, được thực hiện với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, nếp sống văn minh lành mạnh và đạo đức xã hội, gây hoang mang, bất B trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy vụ án cần phải đưa ra xét xử kịp thời và nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Bị cáo là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 4 Điều 328 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ”. Xét bị cáo H là lao động tự do, thu nhập thấp và không ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[3]. Về vật chứng và trách nhiệm dân sự:

* Về vật chứng:

- Đối với khoản tiền 4.910.000đ thu giữ của H: Có 4.000.000đ là tiền B và C trả tiền mua dâm, 500.000đ là tiền B cho H trả tiền xe taxi, đây là khoản tiền do thu lời bất chính mà có, xét tịch thu sung quỹ Nhà nước; Số tiền còn lại là 410.000đ là tiền cá nhân của H không liên quan đến hành vi phạm tội, xét trả lại cho H là phù hợp nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Garaxy A51- Samsung màu đen kèm 01 sim (trên sim có số 8984040800022154608) thu giữ của H: đây là điện thoại H sử dụng để liên lạc thực hiện hành vi môi giới mại dâm, xét tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách có nhãn hiệu “VIP” thu giữ tại phòng 203 do B và H sử dụng và 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách có nhãn hiệu “DUREX” thu giữ tại phòng 204 do C và H sử dụng đều không còn giá trị, xét tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

* Về trách nhiệm dân sự: Ông Lê Thư Q không có yêu cầu đề nghị gì đối với các đối tượng về việc thuê phòng, sử dụng đồ trong phòng của nhà nghỉ nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ khoản 1 điều 328; Điểm a, b Khoản 1, khoản 2 Điều 47; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Khoản 2, Điểm b khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “Môi giới mại dâm ”.

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Lê Thị H cho UBND xã Hương Lung, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo Lê Thị H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 3 điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu bán sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Garaxy A51- Samsung màu đen kèm 01 sim (trên sim có số 8984040800022154608) thu giữ của H.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng chẵn) - Trả lại cho bị cáo Lê Thị H số tiền 410.000đ (Bốn trăm mười nghìn đồng chẵn) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách có nhãn hiệu “VIP” và 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng cùng 01 vỏ bao cao su đã rách có nhãn hiệu “DUREX”.

(Các vật chứng có tình trạng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê)

[3] Về án phí: Bị cáo Lê Thị H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Thị H có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 31/2021/HSST ngày 29/04/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:31/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;