Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28/4/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 02/2021/TLST-HNGĐ ngày 06/01/2021, về việc “Tranh chấp về hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-DS ngày 19/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2021/QĐST-DS ngày 08/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Cẩm D, sinh năm 1961; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã T, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp;

- Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1965; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã T, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp;

(Nguyên đơn bà D có mặt, bị đơn ông T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hồ Cẩm D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông T là vợ chồng từ năm 1992, có đăng ký kết hôn, được UBND xã T, thành phố Cao Lãnh cấp giấy chứng nhận kết hôn số 59/HT ngày 15/11/1996.

Thời gian qua vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Ông T nhậu nhẹt bê tha, mỗi lần uống rượu là đánh đập bà D. Khoảng năm 2015, ông T bắt đầu ghen tuông, mỗi lần nhậu là kiếm chuyện nói bóng gió rồi hành hung bà D, có lần cầm dao gây thương tích cho bà. Công an xã lập biên bản nhiều lần, nhưng do ông T trốn tránh bỏ đi làm ăn xa nên công an không xử phạt được. Ông T rất ngang ngược, còn thách thức công an không làm gì được ông. Năm 2015, bà D đã làm đơn ly hôn, nhưng bà D nghĩ lại, cho ông T cơ hội, nhưng càng ngày ông T càng đánh bà nhiều hơn.

Từ trước đến nay, ông T sống không trách nhiệm, ngược đãi vợ con, bà bệnh thì bỏ mặc không hỏi han, khoảng 1-2 năm nay ông T đi làm không gửi tiền về nuôi con, nhưng khi về thì kiếm chuyện đánh bà D. Một mình bà D ở nhà nuôi con, trong khi bà sức khỏe yếu, không lao động được, cuộc sống của bà rất khổ sở, không còn chịu đựng nỗi.

Nay bà D không muốn tiếp tục đời sống vợ chồng với ông T nữa. Bà D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 04 con chung tên Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1993, Trần Quốc H, sinh năm 1995, Trần Vĩnh Th, sinh ngày 30/4/2000 và Trần Dư H, sinh ngày 17/9/2008. Hiện 03 con Ngọc H, Quốc H, Vĩnh Th đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà D yêu cầu được nuôi cháu Trần Dư H, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng bằng ½ mức lương cơ sở/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Trần Văn T nhưng ông T không có văn bản ghi ý kiến đối với nội dung vụ án, đồng thời không có mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như không có mặt tại phiên tòa xét xử của Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Cẩm D yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn T, yêu cầu được nuôi con chung, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con. Bị đơn Trần Văn T có địa chỉ tại xã T, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T không có mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời không có mặt tại phiên tòa, bà D đồng ý việc xét xử vắng mặt ông T. Do đó căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Trần Văn T.

[2] Về nội dung: Xét quan hệ hôn nhân của bà Hồ Cẩm D và ông Trần Văn T được xác lập vào năm 1992, do bà D thừa nhận, có đăng ký kết hôn ngày 15/11/1996 tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa, bà Hồ Cẩm D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn T. Ông T không có mặt tại phiên tòa và không có ý kiến về quan hệ hôn nhân. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, ông T không gửi (nộp) văn bản ghi ý kiến để trình bày về quan hệ hôn nhân.

Xét thấy, theo bà D trình bày, ông T thường xuyên nhậu, mỗi lần uống rượu là đánh đập bà D, có lần gây thương tích. Bà D từng nhiều lần cho ông T cơ hội nhưng ông T vẫn không thay đổi, đánh đập bà D nhiều hơn, không quan tâm, chăm sóc gia đình, để mặc một mình bà D nuôi con. Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn ông T, nhưng ông T cố tình vắng mặt. Điều này chứng tỏ ông T không có thiện chí để đoàn tụ gia đình với bà D.

Từ những lý do trên cho thấy, đời sống hôn nhân của bà D, ông T có nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn kéo dài và ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên căn cứ theo Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà D.

[2.2] Về con chung: Bà D và ông T có 04 con chung tên Trần Thị Ngọc H, sinh năm 1993, Trần Quốc H, sinh năm 1995, Trần Vĩnh Th, sinh ngày 30/4/2000 và Trần Dư H, sinh ngày 17/9/2008. Hiện nay, Ngọc H, Quốc H, Vĩnh Th đã trưởng thành nên bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với con chung là cháu Dư H, hiện nay đang sống chung với bà D. Tại phiên tòa, bà D vẫn yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Dư H và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng là ½ tháng lương cơ sở/tháng đến khi cháu Dư H đủ 18 tuổi.

Hội đồng xét xử xét thấy, hiện nay cháu Dư H đang sống chung với bà D, cháu Dư H có văn bản trình bày nguyện vọng của cháu là được sống chung với mẹ. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của cháu Dư H, giao cháu Dư H cho bà D tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Xét mức cấp dưỡng bà D yêu cầu là phù hợp với quy định của pháp luật, cũng như khả năng ông T có thể cấp dưỡng nên chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà D trình bày vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung; Ông T cũng không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Án phí: Bà Hồ Cẩm D phải chịu 300.000 tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Ông Trần Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Cẩm D.

- Bà Hồ Cẩm D được ly hôn với ông Trần Văn T.

2/ Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Cẩm D. Giao cháu Trần Dư H, sinh ngày 17/9/2008 cho bà Hồ Cẩm D tiếp tục nuôi dưỡng.

Ông Trần Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là ½ tháng lương cơ sở theo quy định của Nhà nước. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày xét xử sơ thẩm là 28/4/2021 đến khi cháu Dư H đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3/ Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Bà Hồ Cẩm D phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0007561 ngày 30/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp. Như vậy, bà D đã nộp đủ tiền án phí.

Ông Trần Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Bà Hồ Cẩm D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Trần Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con

Số hiệu:31/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;