Bản án 31/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 31/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lô Văn D, sinh ngày 16 tháng 8 năm 2000 tại huyện C, tỉnh Nghệ An; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Bản C, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lô Tương L và bà Hà Thị Đ; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/4/2020 đến ngày 13/4/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Hà Văn H, sinh ngày 14 tháng 7 năm 1998 tại huyện A, tỉnh Nghệ An;

Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện A, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Thanh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn T và bà Hà Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/4/2020 đến ngày 13/4/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Phạm Thế K - Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lang Văn T, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn K, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Đức C, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 06/4/2020, Hà Văn H rủ Lô Văn D cùng và Lang Văn T đi mua ma túy về sử dụng thì D và T đều đồng ý. Sau đó Hoàng điều khiển xe máy nhãn hiệu SIRIUS có biển kiểm soát 37N-771.51 chở Dũng và T lên khu vực dốc P thuộc bản T, xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An để mua ma túy. Khi lên đến giữa dốc, H dừng xe để D đi bộ vào trong vườn keo còn H và T đứng bên đường đợi. D đi vào trong khoảng 30m thì gặp một người đàn ông không quen biết và nói “Bán cho em một trăm” (Ý nói bán cho D một trăm ngàn đồng tiền ma túy) thì người đàn ông đó trả lời “Chờ anh một tý”. Sau đó, D lấy trong túi quần ra đưa cho người đàn ông đó 100.000 đồng và người đàn ông đó đưa lại cho D một gói nhỏ. Vì D biết bên trong gói đó là Heroin nên D cầm lấy nhỏ đó rồi đi ra chỗ H và T đứng chờ để đi về. Khi ra đến nơi, D nói với H và T là lấy được rồi (Ý nói D đã mua được ma túy rồi) thì H nói “Đưa về nhà chơi cho thoải mái” (Ý nói đưa gói ma túy trên về nhà để sử dụng). D và T đều đồng ý nên H điều khiển xe môt tô chở D và T đi về. Khi về gần đến nhà, D lấy gói ma túy mình vẫn cầm ở tay giấu trong bụi cây bên đường. Sau đó H chở D và T đi về nhà. Đến 12 giờ 45 phút ngày 07/4/2020, D rủ H và T lấy gói ma túy mà D đã cất giấu đi tìm địa điểm để sử dụng. H điều khiển xe máy chở D và T đi theo hướng quốc lộ 7A, khi đi đến thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác công an xã M kiểm tra hành chính, phát hiện và thu giữ trong lòng bàn tay phải của D một gói nhỏ bên ngoài được gói bằng mảnh bao potylen màu xanh, tiếp đến là mảnh giấy màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng (Nghi là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và đưa D, H, T về trụ sở Công an xã M làm việc Sau đó, ban công an xã M đã bàn giao hồ sơ, đối tượng và vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện C để điều tra theo đúng thẩm quyền.

Ngày 07/4/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã thành lập hội đồng tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu đi giám định và niêm phong lại. Sau khi loại bỏ bao bì cân khối lượng gói chứa chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn D đã xác định được khối lượng là 0,2 gam. Để có cơ sở kết luận và theo yêu cầu của công tác điều tra Hội đồng đã lấy toàn bộ khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn D gửi đi giám định. Tại kết luận giám định số: 495/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 10/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn D gửi tới giám định là ma túy Heroine.

Cáo trạng số: 26/CT-VKS-CC ngày 14/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố các bị cáo Lô Văn D và Hà Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, bản thân các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lô Văn D trình bày lời bào chữa: Đồng ý với bản luận tội của Viện kiểm sát nhưng đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại cùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên khả năng nhận thức về pháp luật còn hạn chế; bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có nhân than tốt, chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý tàng trữ không lớn; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất, miễn hình phạt bổ sung và án phí cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lô Văn D và bị cáo Hà Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Lô Văn D mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù; xử phạt bị cáo Hà Văn H mức án từ 14 tháng đến 18 tháng tù miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo; Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số vật chứng của vụ án; Bị cáo Hà Văn H phải chịu án phí HSST đồng thời miễn án phí HSST cho bị cáo Lô Văn D theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

- Trong quá trình điều tra: Cơ quan điều tra, Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; xử lý vật chứng; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

- Các bị cáo, người bào chữa, người làm chứng, người chứng kiến không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Lô Văn D và Hà Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 12 giờ giờ 45 phút ngày 07/4/2020, tại khu vực thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An. Lô Văn D và Hà Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2 gam chất ma tuý Heroine với mục đích để sử dụng. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết tội các bị cáo Lô Văn D và Hà Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, có nhiều bị cáo cùng tham gia nhưng không có sự bàn bạc phân công thực hiện tội phạm, sự liên kết trong các hành vi của các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn, không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Nhưng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an trên địa bàn mà còn gây tác hại cho sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, phá hoại hạnh phúc gia đình và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

Xét về tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của các bị cáo:

Đối với Hà Văn H là người khởi xướng, rủ rê Lô Văn D và Lang Văn T cùng đi mua ma túy về sử dụng. Tuy bị cáo không trực tiếp thực hiện hành vi mua ma túy nhưng bị cáo đã dùng phương tiện của mình là xe mô tô chở D và T tới địa điểm có bán ma túy để D vào mua nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, điều này thể hiện bị cáo là người liều lĩnh, coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo lao động, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với Lô Văn D là người thực hành tích cực, nhận thức được ma túy là chất nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng nhưng để thõa mãn nhu cầu của mình lẽ ra khi nghe bị cáo H rủ rê đi mua ma tuý, bị cáo phải ra sức khuyên nhủ, can ngăn, nhưng bị cáo đã không làm được điều đó mà còn cùng với H thực hiện hành vi một cách tích cực nên cũng cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống phụ thuộc vào bố mẹ, tài sản riêng không có nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Trong quá trình điều tra D khai nhận số ma túy bị lực lượng Công an thu giữ là do D mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi và địa chỉ tại bản T, xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An. Do không rõ danh tính của người đàn ông này nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra.

Ngoài ra, trong vụ án còn có đối tượng Lang Văn T là người đi mua ma túy cùng với D và H nhưng qua điều tra xác minh được T là đối tượng nghiện ma túy được D và H rủ đi theo để sử dụng ma túy. Do đó, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Con C, tỉnh Nghệ An đã giao Thuận cho chính quyền địa phương quản lý, giáo dục.

[5] Về vật chứng:

- 01 mảnh bao potylen màu xanh; 01 mảnh giấy thiếc màu vàng và 01 phong bì thư bưu điện đã mở niêm phong là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Thu giữ tại Hà Văn H 01 chiếc xe mô tô màu trắng, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Con Cuông xác minh được chiếc xe mô tô trên là do H mượn của anh Nguyễn Văn L có địa chỉ tại khối 10, thị trấn H, huyện H, tỉnh Nghệ An. Lúc cho H mượn xe anh L không biết H mượn để sử dụng vào mục đích đi mua ma túy nên ngày 24/4/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu chiếc xe anh Nguyễn Văn L là đúng theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo Hà Văn H phải chịu án phí HSST đồng thời miễn án phí HSST cho bị cáo Lô Văn D theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Hà Văn H và Lô Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hà Văn H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/4/2020.

Xử phạt bị cáo Lô Văn D 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/4/2020.

- Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư bưu điện, loại đang lưu hành, xung quan có viền xanh đỏ đã được niêm phong bên trong có 01 mảnh bao potylen màu xanh; 01 mảnh giấy thiếc màu vàng và 01 phong bì thư bưu điểm đã mở niêm phong.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm được ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng số 36 ngày 15/5/2020 giữa Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Hà Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí HSST. Áp dụng Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn tiền án phí HSST cho bị cáo Lô Văn D.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;