Bản án 305/2020/DS-PT ngày 13/05/2020 về tranh chấp hợp đồng thuê văn phòng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 305/2020/DS-PT NGÀY 13/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ VĂN PHÒNG

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 56/DSPT ngày 13 tháng 01 năm 2020 về “tranh chấp hợp đồng thuê văn phòng”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2019/DS-ST ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1910/2020/QĐXXPT-DS ngày 24 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự;

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Bích N, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Số 73/2/19A đường NVL, Phường 0M, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt) 2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Thương mại NK.

Địa chỉ trụ sở: Số 63-65-67 đường THĐ, phường COL, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Đặng Văn H, sinh năm 1986, Địa chỉ: Số 99 đường NTMK, phường BT, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền. (Văn bản ủy quyền ngày 26 tháng 9 năm 2019) (Có mặt) 4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Bích N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn trình bày:

Ngày 25 tháng 4 năm 2014 giữa nguyên đơn và Công ty Cổ phần Thương mại NK có ký Hợp đồng thuê ki ốt số 171/2014/HĐT/SGMALL-GV và Phụ lục 01 với nội dung: Bị đơn đồng ý cho nguyên đơn thuê ki ốt 3E12B và 3E12C với giá thuê mỗi ki ốt là 2.200.000 đồng/tháng (đã bao gồm VAT) tại Trung tâm Mua sắm và Giải trí SG Mall – GV, địa chỉ: Số 2A đường PVT, Phường 0M, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; Thời hạn thuê là 24 tháng tính từ ngày 25 tháng 4 năm 2014 đến hết ngày 24 tháng 4 năm 2016; Số tiền đặt cọc là 24.000.000 đồng thanh toán ngay sau khi ký hợp đồng và phụ lục, khoản tiền đặt cọc (không tính tiền lãi) sẽ được bị đơn hoàn trả khi chấm dứt hợp đồng sau khi đã khấu trừ các khoản tiền nợ (nếu có) trừ các trường hợp quy định tại Điều 10 của hợp đồng.

Ngày 25 tháng 12 năm 2014 giữa nguyên đơn và Công ty Cổ phần Thương mại NK có ký Hợp đồng thuê ki ốt số 128-01/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 với nội dung: Bị đơn đồng ý cho nguyên đơn thuê ki ốt 3A38 với giá thuê là 3.190.000 đồng/tháng (đã bao gồm VAT) tại Trung tâm Mua sắm và Giải trí SG Mall – GV, thời hạn thuê là 16 tháng tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2014 đến hết ngày 25 tháng 4 năm 2016; Số tiền đặt cọc là 17.400.000 đồng thanh toán ngay sau khi ký hợp đồng và phụ lục, khoản tiền đặt cọc (không tính tiền lãi) sẽ được bị đơn hoàn trả khi chấm dứt hợp đồng sau khi đã khấu trừ các khoản tiền nợ (nếu có) trừ các trường hợp quy định tại Điều 10 của hợp đồng.

Ngày 18 tháng 6 năm 2015 giữa nguyên đơn và Công ty Cổ phần Thương mại NK ký Phụ lục 04 của Hợp đồng 171/2014/HĐT/SGMALL-GV điều chỉnh vị trí thuê ki ốt từ 3E12B và 3E12C sang 2E12B và 2E12C với giá thuê mỗi ki ốt là 5.500.000 đồng/tháng (đã bao gồm VAT) và Phụ lục 04 của Hợp đồng 128- 01/2014/HĐT/SGMALL-GV điều chỉnh vị trí thuê ki ốt từ 3A38 sang 2A38 với giá thuê là 3.850.000 đồng/tháng (đã bao gồm VAT), gia hạn thời hạn hết hạn Hợp đồng thuê là ngày 24 tháng 7 năm 2016. Tuy nhiên, chỉ sau 9 tháng hoạt động, tại Trung tâm SG Mall đã xảy ra khá nhiều sự việc, việc làm không thỏa đáng từ phía bị đơn, gây khó khăn cho việc kinh doanh của nguyên đơn như: Cảnh quan bộ mặt của Trung tâm SG Mall, trước Tết âm lịch 2015 và ra giêng phía Trung tâm SG Mall có hành vi và ý đồ làm lộn xộn gây hoang mang có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh của toàn bộ tiểu thương, không thực hiện đúng hợp đồng đã ký với toàn bộ tiểu thương, đại diện bị đơn chỉ họp tiếp nhận thông tin để xem xét công văn và những lời hứa xây dựng phát triển, yêu cầu tiểu thương tiếp tục tái đầu tư để tháng 9 năm 2015 sẽ khai trương trở lại.

Nguyên đơn đã chuẩn bị hàng hóa và chờ đợi đến tháng 7 năm 2016 nhưng bị đơn vẫn chưa khai trương lại. Theo Công văn thông báo ngày 08 tháng 9 năm 2015 của bị đơn do ông KTH ký nêu lý do chưa tìm kiếm được đối tác cho thuê lầu trệt nên không khai trương đúng thời hạn đã hứa và đề nghị miễn phí tiền thuê mặt bằng, phí quản lý và phí giữ xe không bao gồm phí sử dụng điện tại các ki ốt cho tới khi các đối tác lầu trệt đi vào hoạt động, gia hạn thêm thời hạn hiệu lực hợp đồng thuê mặt bằng (Hợp đồng sẽ hết hạn vào ngày 24 tháng 7 năm 2016) với thời lượng tương ứng từ ngày 01 tháng 9 năm 2015 đến ngày đối tác mới đi vào hoạt động.

Ngày 18 tháng 11 năm 2016, bị đơn ra thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng. Ngày 22 tháng 11 năm 2016, các tiểu thương làm đơn kiến nghị gửi bị đơn nhưng vẫn không có kết quả thỏa đáng.

Ngày 14 và 15 tháng 12 năm 2016, bị đơn gọi điện cho từng tiểu thương lên trao đổi, yêu cầu tiểu thương thanh lý hợp đồng trước thời hạn với mức đền bù không thỏa đáng - quá ít ỏi so với công sức, chi phí đầu tư của tiểu thương suốt hơn 02 năm qua. Vào ngày 14 tháng 01 năm 2017, bị đơn yêu cầu tiểu thương phải trả lại mặt bằng kinh doanh trước ngày 26 tháng 01 năm 2017 để được hưởng mức hỗ trợ là 4 tháng theo hợp đồng và hoàn trả lại tiền cọc, sau thời hạn trên, bị đơn sẽ niêm phong ki ốt, không cho mở cửa kinh doanh và tiến hành mời cơ quan pháp luật có thẩm quyền đến làm chứng và di dời hàng hóa của tiểu thương vào kho. Mọi tổn thất phát sinh trong quá trình niêm phong và di dời bị đơn không chịu trách nhiệm. Các tiểu thương không đồng ý với quyết định đơn phương từ bị đơn do hợp đồng vẫn còn thời hạn theo công văn mà bị đơn đã ký với tiểu thương.

Ngày 07 tháng 02 năm 2017, các tiểu thương nhận được thông báo từ bị đơn về việc bàn giao mặt bằng và đã phản hồi ngay là không đồng ý với quyết định này.

Sáng ngày 11 tháng 02 năm 2017, bị đơn cho chặn tất cả các lối vào trung tâm, không cho gửi xe tại bãi xe trung tâm, cử bảo vệ canh phòng nghiêm ngặt lối vào thang máy, cũng như thang cuốn, đồng thời mời Công an Phường 10 cùng đại diện bên thứ 3 - Thừa phát lại, tự ý di dời hàng hóa của tiểu thương ra khỏi ki ốt.

Nguyên đơn không đồng ý với những việc làm nêu trên và khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Cổ phần Thương mại NK tiếp tục cho nguyên đơn thuê 03 ki ốt 2E12B, 2E12C và 2A38 theo Hợp đồng thuê ki ốt số 171/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 4 năm 2014, Hợp đồng thuê ki ốt số 128-01/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 12 năm 2014 và Công văn ngày 08 tháng 9 năm 2015.

Trong quá trình tham gia tố tụng tại tòa án bị đơn có người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Bị đơn xác nhận có ký hợp đồng cho bà Lê Thị Bích N thuê 03 ki ốt tại Tòa nhà Trung tâm mua sắm và giải trí SG Mall - GV với nội dung đúng như phía nguyên đơn trình bày. Để hỗ trợ nguyên đơn, bị đơn giảm 50% tiền thuê ki ốt trong 6 tháng đầu.

Ngày 18 tháng 6 năm 2015 giữa nguyên đơn và Công ty Cổ phần Thương mại NK ký Phụ lục 04 của Hợp đồng 171/2014/HĐT/SGMALL-GV điều chỉnh vị trí thuê ki ốt từ 3E12B và 3E12C sang 2E12B và 2E12C với giá thuê mỗi ki ốt là 5.500.000 đồng/tháng (đã bao gồm VAT) và Phụ lục 04 của Hợp đồng 128- 01/2014/HĐT/SGMALL-GV điều chỉnh vị trí thuê ki ốt từ 3A38 sang 2A38 với giá thuê là 3.850.000 đồng/tháng (đã bao gồm VAT), gia hạn thời hạn hết hạn Họp đồng thuê là ngày 24 tháng 7 năm 2016.

Bị đơn có văn bản ngày 08 tháng 9 năm 2015 thông báo miễn tiền thuê ki ốt, tiền phí quản lý và tiền phí giữ xe kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 cho nguyên đơn đến khi các đối tác ở tầng trệt đi vào hoạt động. Thực tế thì bị đơn đã miễn tiền thuê ki ốt và các loại phí đến ngày thu hồi mặt bằng là ngày 11 tháng 02 năm 2017.

Tháng 10 năm 2016, bị đơn có thông báo về việc yêu cầu các tiểu thương hợp tác trong việc mở cửa bán hàng, cải thiện trưng bày hàng hóa và nhân viên bán hàng. Song song với việc thông báo bằng văn bản, bị đơn còn tổ chức các cuộc họp với tiểu thương. Sau khi xem xét nhiều mặt, bị đơn đã thể hiện thiện chí của mình khi đồng ý hỗ trợ mỗi tiểu thương trả mặt bằng, di dời ra khỏi Trung tâm SG Mall 04 tháng tiền thuê mặt bằng, hỗ trợ miễn phí phương tiện di dời, tháo ráp quầy kệ. Hơn 90% tiểu thương đồng ý tiếp nhận hỗ trợ và di dời, riêng nguyên đơn không hợp tác.

Mặc dù đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhưng nguyên đơn vẫn không thực hiện đúng quy định về trưng bày hàng hóa tại Trung tâm SG Mall. Việc nguyên đơn không trưng bày hàng hóa, không có nhân viên bán hàng, mở cửa ki ốt trễ giờ quy định, ngưng kinh doanh mà không được sự đồng ý của bị đơn theo đúng thỏa thuận đã được ký là vi phạm nội quy Trung tâm SG Mall theo Điều 8, Điều 10 của hợp đồng. Trong trường hợp này, bị đơn được quyền áp dụng Điều 13 của hợp đồng để xử lý vi phạm. Đồng thời đến tháng 10 năm 2016, hợp đồng giữa bị đơn với nguyên đơn cũng đã hết hạn (hết hạn ngày 24 tháng 7 năm 2016). Vì vậy, ngày 18 tháng 11 năm 2016, bị đơn đã ra thông báo về việc thanh lý hợp đồng thuê ki ốt với các tiểu thương, trong đó có nguyên đơn.

Ngày 01 tháng 12 năm 2016, bị đơn đã thông báo nếu tiểu thương nào muốn tiếp tục kinh doanh thì phải trưng bày hàng hóa, sắp xếp lại nhân viên kinh doanh và mở cửa hoạt động trên tinh thần tôn trọng lợi ích lẫn nhau, đồng thời thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ và trách nhiệm theo quy chế quản lý tòa nhà của Trung tâm SG Mall.

Ngày 06 tháng 12 năm 2016, bị đơn đã có văn bản gửi nguyên đơn yêu cầu chấn chỉnh việc trưng bày hàng hóa; mở cửa đúng giờ và thường xuyên phải có nhân viên bán hàng tại quầy. Thời gian để khắc phục những nội dung trong công văn này là ngày 10 tháng 12 năm 2016. Quá thời gian trên, nếu nguyên đơn không khắc phục mà vẫn cố tình để như hiện trạng cũ thì buộc lòng bị đơn phải yêu cầu niêm phong quầy hàng, không cho kinh doanh và buộc di dời hàng hóa ra khỏi Trung tâm SG Mall.

Ngoài việc gửi công văn riêng cho nguyên đơn, bị đơn đã ban hành Thông báo về việc tuân thủ nội quy hoạt động của Trung tâm thương mại. Trong thông báo này, bị đơn yêu cầu các tiểu thương nếu tiếp tục kinh doanh thì phải hoàn thiện về hàng hóa và hoạt động trưng bày, đồng thời chấn chỉnh tác phong kinh doanh và nghiêm túc tuân thủ nội quy. Đến ngày 05 tháng 01 năm 2017, nếu Ban Quản lý Trung tâm SG Mall phát hiện các trường hợp vi phạm nội quy hoạt động của Trung tâm SG Mall sẽ thu hồi lại mặt bằng. Mặc dù đã nhắc nhở, cảnh báo bằng mọi biện pháp nhưng nguyên đơn vẫn không thực hiện đúng nội quy của Trung tâm SG Mall và các thỏa thuận đã ký trong hợp đồng. Xét thấy thời hạn hợp đồng đã hết, trong quá trình thuê, nguyên đơn liên tục có nhiều vi phạm, đã được nhắc nhở nhiều lần nhưng không thực hiện làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh chung, vì vậy, ngày 11 tháng 02 năm 2017, bị đơn đã tiến hành thu hồi mặt bằng. Đồng thời, ngày 23 tháng 02 năm 2017, bị đơn thông báo nguyên đơn đến nhận lại tài sản. Tuy nhiên, đến nay nguyên đơn vẫn không đến nhận lại tài sản. Do đó, bị đơn không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2019 DS-ST ngày 31/10/2019, Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bích N yêu cầu Công ty Cổ phần Thương mại NK tiếp tục cho thuê 03 ki ốt 2E12B, 2E12C và 2A38 theo Hợp đồng thuê ki ốt số 171/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 4 năm 2014; Hợp đồng thuê ki ốt số 128-01/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 12 năm 2014 và Công văn ngày 08 tháng 9 năm 2015.

Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 14/11/2019 bà N nộp đơn kháng cáo với lý do Từ tháng 01/2015 đến khi Công ty Cổ phần NK tự ý phá cửa hàng ki ốt của bà vào thời điểm tháng 1/2017 bà không kinh doanh buôn bán được. Công ty không có hoạt động nào bảo đảm cho bà sử dụng ổn định trong thời gian thuê (không thực hiện đúng như cam kết ký trong hợp đồng tại Điều 7.2 và Điều 9) Ngày 30/8/2016 ký phụ lục hợp đồng số 23.2016/SGM GV và căn cứ theo hợp đồng này, ngày 25/4/2014 bên A lại yêu cầu bà đóng cửa để bên A sửa chữa và di dời hàng hóa. Bên B đã có nhiều văn bản yêu cầu bên A trả lời về việc ổn định mặt bằng kinh doanh và thực hiện đúng thời gian hiệu lực hợp đồng như đã ký theo Điều 7 của hợp đồng nhưng Bên A vẫn không có văn bản trả lời. Ngày 8/9 do ông Kim Tea Huyn phó tổng giám đốc ký gửi cho bà cũng không được tòa công nhận. Vì vậy, bà kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm ngày 31/10/2019.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, Phía bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của của đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của chủ tọa, thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của các đương sự và về nội dung như sau:

+ Về tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các bên đương sự đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn nêu ra là không có căn cứ.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 439/2019/DS-ST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thời hạn kháng cáo: Ngày 31/10/2019 Tòa án nhân dân Quận M xét xử và tuyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 439/2019/DS-ST. Ngày 14/11/2019 nguyên đơn có đơn kháng cáo. Căn cứ Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 kháng cáo còn trong hạn luật định nên được xem xét.

[2]. Về nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích N yêu cầu hủy án sơ thẩm.

[3]. Xét, tại mục [4], mục [5] trong phần nhận định của Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2019 DS-ST ngày 31/10/2019, đã căn cứ vào Hợp đồng thuê mặt bằng (thuê ki ốt) số 171/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 4 năm 2014, Hợp đồng thuê ki ốt số 128-01/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 12 năm 2014 để xác định thời hạn thuê hợp đồng giữa bà N với Công ty Cổ phần Thương mại NK là 24 tháng bắt đầu từ ngày 25 tháng 4 năm 2014 đến hết ngày 24 tháng 4 năm 2016. Ngày 18 tháng 6 năm 2015, bị đơn và nguyên đơn ký tiếp Phụ lục 05 gia hạn thời gian thuê là 03 tháng, thời hạn hết hạn hợp đồng thuê là ngày 24 tháng 7 năm 2016.

Ngày 18 tháng 11 năm 2016, bị đơn đã ra thông báo về việc thanh lý hợp đồng thuê ki ốt với các tiểu thương, trong đó có nguyên đơn. Ngày 11 tháng 02 năm 2017, phía bị đơn đã tiến hành thu hồi mặt bằng.

Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn tiếp tục cho nguyên đơn thuê 03 ki ốt 2E12B, 2E12C và 2A38 theo Hợp đồng thuê ki ốt số 171/2014/HĐT/SGMALL-GV và các Phụ lục nêu trên là không có cơ sở theo quy định tại các điều 480, 482 và 491 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Tòa cấp sơ thẩm nhận định như trên và quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đúng pháp luật. Do yêu cầu kháng cáo đề nghị hủy án sơ thẩm của bà N là không có căn cứ nên giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2019/DS- ST ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] . Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bà N không được chấp nhận nên bà N phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 38, Điều 148, Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Bích N.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 439/2019/DS-ST ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bích N yêu cầu Công ty Cổ phần Thương mại NK tiếp tục cho thuê 03 ki ốt 2E12B, 2E12C và 2A38 theo Hợp đồng thuê ki ốt số 171/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 4 năm 2014; Hợp đồng thuê ki ốt số 128-01/2014/HĐT/SGMALL-GV, Phụ lục 01 ngày 25 tháng 12 năm 2014 và Công văn ngày 08 tháng 9 năm 2015.

2.2. Bà Nguyễn Thị Bích N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số AA/2016/0019238 ngày 13/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm 4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Bích N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu số AA/2019/0005278 ngày 20/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 305/2020/DS-PT ngày 13/05/2020 về tranh chấp hợp đồng thuê văn phòng

Số hiệu:305/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;