Bản án 30/2022/DS-ST về tranh chấp nợ huê

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 30/2022/DS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TRANH CHẤP NỢ HUÊ

Ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 70/2022/TLST-DS ngày 08 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp nợ huê”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-DS ngày 10/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2022/QĐST-DS ngày 25/8/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Minh C, sinh năm 1970; địa chỉ: 11/8 đường P, khu phố N, thị trấn M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1975; địa chỉ: số 11/12/9, đường P, khu phố N, thị trấn M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Bà C có mặt, bà N vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tháng 7/2019 bà C có gọi 01 dây huê (còn gọi là họ, hụi) gồm 28 phần, mỗi phần 2.000.000đ. Do có quan hệ quen biết nên bà Nguyễn Thị N có tham gia chơi 01 phần trong dây huê này. Đến tháng 9/2019 thì bà N hốt huê và viết giấy xác nhận bà C đã thanh toán đủ số tiền 42.500.000đ, cam kết có trách nhiệm đóng 25 kỳ huê trong 25 tháng, mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi mãn dây huê. Đến ngày 30/12/2021 thì dây huê kết thúc, bà N chỉ đóng được 22 kỳ, còn thiếu 03 kỳ huê không đóng cho bà C. Nhiều lần bà C đến nhà đòi thì bà N thừa nhận còn nợ 03 kỳ là 6.000.000đ nhưng lấy lý do để đến khi lấy được tiền từ người khác thì mới trả.

Vì vậy bà C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà N trả số tiền 6.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà N vắng mặt, không có lời trình bày, không có ý kiến gì về nội dung vụ án và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Phan Thị Minh C giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc tranh chấp nợ huê, buộc bà Nguyễn Thị N có trách nhiệm trả số tiền nợ huê 6.000.000đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật; Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật; bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền nợ huê 6.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn Phan Thị Minh C khởi kiện tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản, yêu cầu bà Nguyễn Thị N, cư trú tại: số 11/12/9, đường P, khu phố N, thị trấn M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng trả số tiền nợ huê 6.000.000đ. Đây là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ biên bản xác minh ngày 13/7/2022 tại Công an thị trấn M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng thì nguyên đơn khởi kiện bị đơn đúng với địa chỉ bị đơn cư trú, bà N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung cần giải quyết của vụ án:

[2.1] Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ thể hiện bà Phan Thị Minh C khởi kiện bà Nguyễn Thị N yêu cầu trả nợ theo giấy nhận tiền ngày 13/9/2019. Bà C cho rằng đến nay dây huê đã kết thúc và bà N còn nợ huê 6.000.000đ nên xác định đây là quan hệ “Tranh chấp nợ huê”.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Theo giấy nhận tiền ngày 13/9/2019 bà N xác nhận bà C đã chồng huê với số tiền 42.500.000đ, tính đến thời hốt huê bà N còn phải đóng 25 kỳ huê, mỗi kỳ 2.000.000đ. Về phía bà C cũng xác nhận bà N chỉ còn nợ 03 kỳ huê tương ứng số tiền 6.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và Thông báo về kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ của vụ án nhưng đến nay bị đơn cũng không có lời trình bày hoặc văn bản nào phản bác lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Từ đó, có căn cứ chứng minh nội dung tranh chấp nợ huê là có thật và có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn có trách nhiệm trả nợ huê.

Từ những phân tích trên, xét yêu cầu khởi kiện và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu trả nợ huê của nguyên đơn.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận nên bị đơn phải nộp toàn bộ án phí tương ứng với giá trị tài sản tranh chấp.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 91, 92, 144, 147; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 357; các Điều 468, 471 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 16, 17 và 24 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biu, phường;

Căn cứ khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị N có trách nhiệm trả cho bà Phan Thị Minh C số tiền nợ huê 6.000.0000đ (sáu triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả chongười được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị N phải nộp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Phan Thị Minh C số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003878 ngày 08/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thị hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2022/DS-ST về tranh chấp nợ huê

Số hiệu:30/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;