TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE - TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 113/2017/DS-ST NGÀY 11/09/2017 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI
Ngày 11 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 129/2017/TLST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2017 về việc: “Tranh chấp nợ hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2017/QĐXX-ST ngày 03 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2017/QĐST-DS ngày 22 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1966(Có mặt);
Nơi cư trú: Đường NTĐ, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
* Bị đơn: Bà Nguyễn Mỹ H, sinh năm 1972 (Vắng mặt);
Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1971 (Vắng mặt);
Nơi cư trú: Khu phố B, phường PK, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H và ông C: Ông Nguyễn Bảo Q, sinh năm 1976. Nơi cư trú: ấp BAB, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh Bến Tre; Theo giấy ủy quyền tham gia tố tụng ngày 03/7/2017(Vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày:
Bà có tham gia chơi 03 dây hụi do bà Nguyễn Mỹ H làm chủ hụi. Đến ngày 22/12/2016 (âm lịch) bà H tuyên bố bể hụi, bà H đồng ý trả lại tiền vốn cho bà. Vào ngày 22/02/2017, bà H đã viết biên nhận trả tiền vốn hụi mà bà đã đóng tổng cộng là 144.230.000đồng, cụ thể như sau:
- Dây hụi thứ nhất: Bắt đầu khui ngày 01/7/2015 (âm lịch) gồm 24 phần, một tháng khui hụi 01 lần; mỗi phần hụi đóng là 1.000.000đồng, bà tham gia chơi 02 phần. Bà đã đóng được 18 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 21.960.000đồng.
- Dây hụi thứ hai: Bắt đầu khui ngày 01/09/2015 (âm lịch) gồm 24 phần, một tháng khui hụi 01 lần; mỗi phần hụi đóng là 1.000.000đồng, bà tham gia chơi 11 phần. Bà đã đóng được 16 kỳ thì bà H tuyên bố bể hụi. Tổng số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 106.480.000đồng.
- Dây hụi thứ ba: Bắt đầu khui ngày 10/06/2016 (âm lịch) gồm 24 phần, một tháng khui hụi 02 lần; mỗi phần hụi đóng là 2.000.000đồng, bà tham gia chơi 01 phần. Bà đã đóng được 12 kỳ với số tiền hụi gốc bà đã đóng cho bà H là 15.790.000đồng.
Bà có yêu cầu bà H trả tiền nợ hụi nhiều lần nhưng bà H vẫn không trả. Theo đơn khởi kiện bà yêu cầu bà H và ông Nguyễn Ngọc C liên đới trách nhiệm trả cho bà số tiền nợ hụi là 260.000.000đồng là có tiền lời. Vì vậy, ngày 29/6/2017, bà làm đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện chỉ yêu cầu bà H trả cho bà số tiền vốn hụi không có tiền lời, lãi là 144.230.000đồng, đồng thời không yêu cầu ông Nguyễn Ngọc C liên đới trả nợ. Bà không yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/5/2017, bị đơn bà Nguyễn Mỹ H trình bày: Bà H thừa nhận trước đây bà có làm chủ hụi, bà L có tham gia chơi hụi nhưng đến ngày 25/12/2016 bà ngừng không khui hụi nữa. Bà có viết biên nhận nợ hụi bà L là 144.230.000đồng, số tiền bà ghi trong biên nhận nợ hụi là tiền vốn gốc mà các hụi viên đã đóng hụi, không có tiền lời hay tiền lãi. Bà đồng ý trả tiền nợ hụi cho bà L nhưng hiện nay bà không có tiền trả, bà sẽ bán nhà bà và trả nợ cho bà L.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có mời bà H và ông C đến hòa giải nhiều lần nhưng bà H, ông C vẫn không đến nên Tòa án không hòa giải được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý đến khi xét xử. Về quan điểm giải quyết vụ án thấy rằng: Bà L có chơi 03 dây hụi do bà H làm chủ. Bà L làm đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện nên đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện. Ghi nhận bà L không yêu cầu tính lãi và không yêu cầu ông C chồng bà H liên đới trả nợ. Do đó bà H phải có trách nhiệm trả cho bà L số tiền nợ hụi là 144.230.000đồng. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Xét đây là quan hệ tranh chấp nợ tiền hụi giữa bà Trần Thị L với bà Nguyễn Mỹ H, ông Nguyễn Ngọc C và do bà H, ông C hiện nay đang cư trú tại phường Phú Khương, thành phố BT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố BT theo Điều 26 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên hòa giải cho bà H và ông C nhiều lần nhưng bà H, ông C vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể hòa giải được. Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng bà H, ông C vẫn vắng mặt. Người đại diện theo ủy quyền của bà H, ông C là ông Nguyễn Bảo Q được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Do đó căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố BT tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà H, ông C là đúng quy định pháp luật.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà L có chơi 03 dây hụi do bà H làm chủ hụi là có thật. Bà H thừa nhận vào ngày 25/12/2016 bà H bị bể hụi và ngừng không khui hụi nữa.
Ngày 22/02/2017, bà H có viết biên nhận nợ tiền hụi gốc của bà L tổng cộng là 260.000.000 đồng đồng thời bà H còn viết biên nhận nợ hụi bà L với số tiền 144.230.000đồng. Bà L khởi kiện yêu cầu bà H và ông C liên đới trách nhiệm trả số tiền nợ hụi 260.000.000đồng, tuy nhiên bà L đã làm đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện với số tiền là 115.770.000đồng do đây là tiền lời và bà chỉ yêu cầu bà H trả số tiền nợ hụi là 144.230.000 đồng. Ngoài ra, bà L không yêu cầu ông C liên đới trách nhiệm với bà H trả tiền nợ hụi cho bà.
Vì vậy Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của bà L về việc buộc bà H, ông C liên đới trách nhiệm trả số tiền 115.770.000đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù bà H không đến Tòa án để giải quyết nhưng qua làm việc tại nhà bà H thì bà H thừa nhận số tiền bà H ghi trong biên nhận nợ hụi của các hụi viên là tiền vốn gốc không có tiền lời hay tiền lãi.
Bà H đồng ý trả tiền nợ hụi cho bà L nhưng hiện nay bà không có tiền trả, bà sẽ bán nhà trả nợ. Do bà L không yêu cầu chồng bà H là ông Nguyễn Ngọc C liên đới trách nhiệm trả nợ hụi cùng bà H nên Tòa án đình chỉ giải quyết, bà H phải có trách nhiệm trả cho bà L số tiền nợ hụi là 144.230.000 đồng. Ghi nhận bà L không yêu cầu tính lãi đối với số tiền nợ hụi. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, buộc bà H có trách nhiệm trả cho bà L số tiền nợ hụi là 144.230.000 đồng.
[4] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bà Trần Thị L không phải chịu án phí. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là (144.230.000đồng x 5%) =7.211.500 (Bảy triệu hai trăm mười một ngàn năm trăm) đồng, bị đơn bà Nguyễn Mỹ H có trách nhiệm chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 357 và Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 26, 147, 217 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về họ, hụi, biêu, phường;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị L, cụ thể tuyên: Buộc bà Nguyễn Mỹ H có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị L số tiền 144.230.000 (Một trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm ba mươi ngàn) đồng. Ghi nhận bà L không yêu cầu tính lãi đối với số tiền nêu trên.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án, số tiền bồi thường nêu trên nếu chưa được thi hành thì hàng tháng còn phải trả lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L về việc buộc bà Nguyễn Mỹ H phải trả số tiền nợ hụi là 115.770.000(Một trăm mười lăm triệu bảy trăm bảy mươi ngàn) đồng. Đình chỉ yêu cầu của bà Trần Thị L về việc buộc ông Nguyễn Ngọc C có trách nhiệm liên đới trả số tiền nợ hụi với bà Nguyễn Mỹ H.
3. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 7.211.500 (Bảy triệu hai trăm mười một ngàn năm trăm) đồng, bị đơn bà Nguyễn Mỹ H có trách nhiệm nộp. Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố BT, tỉnh Bến Tre hoàn lại cho bà Trần Thị L số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 6.500.000(Sáu triệu năm trăm ngàn) đồng theo biên lai số 0010822 ngày 16 tháng 5 năm 2017.
“ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bản án 113/2017/DS-ST ngày 11/09/2017 về tranh chấp nợ hụi
Số hiệu: | 113/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về