TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 30/2020/HS-PT NGÀY 04/05/2020 VỀ ĐÁNH BẠC
Trong ngày 04 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2020/HSPT ngày 30 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo Lê Văn B và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Lê Văn B, sinh năm 1990, tại tỉnh Ninh Bình; HKTT: Thôn Hậu, xã N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở hiện nay: Thôn Đắk Lim, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Lê Văn B và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ánh T; bị cáo có 01 người con sinh năm 2019; tiền sự: Không;
Tiền án: 3 (ba tiền án) Ngày 22/7/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 08 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 123/2011/HSPT Ngày 05/02/2013 bị Tòa án nhân dân thị xã Phước Long xử phạt 13 tháng 11 ngày tù về các tội “Cố ý gây thương tích” và “Bắt, giữ người trái pháp luật” tại Bản án số 09/2013/HSST.
Ngày 09/02/2018 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 05 tháng 21 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” tại Bản án số 09/2018/HSST.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 02/4/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Quang T, sinh năm 1985, tại Quảng Bình; HKTT: Thôn Cây Da, xã P, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Nguyễn Ngọc T và bà Phạm Thị H; bị cáo có vợ tên Lê Thị Thanh H; bị cáo có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2013 con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án: Không;
Tiền sự: 01. Ngày 30/10/2018 bị Công an huyện B xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền 1.500.000 đồng, bị cáo đã chấp hành xong ngày 30/10/2018.
Nhân thân:
Ngày 12/3/2014 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 24/2014/HSST.
Ngày 19/3/2015 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 04 tháng 03 ngày tù về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 26/2015/HSST.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 02/4/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ ngày 01/02/2019 Nguyễn Quang T đến nhà Mai Văn R ở thôn 3, xã P, huyện B chơi, sau đó T rủ R chơi xóc đĩa thắng thua bằng tiền thì R đồng ý và T chuẩn bị các dụng cụ để đánh xóc đĩa. Nguyễn Quang T vào nhà của Mai Văn R lấy 01 cái bát, 01 cái đĩa, 01 cái kéo và 01 lá bài tây rồi đi xuống vườn điều của gia đình ông Nguyễn H ở Thôn 3, xã P, huyện P (cách nhà của R khoảng 500 mét). Khi Tra đến vườn điều thì gặp Nguyễn Thế D điều khiển xe Yamaha Sirius biển số 93T4-3442 đi ngang qua nên T rủ D đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa thì D đồng ý. Sau khi T cắt 04 con vị xong thì có Lê Văn B điều khiển xe Yamaha Exciter biển số 93K1 – 036.39 đi ngang qua vườn điều và thấy có đông người nên dừng xe lại, đi vào xem. Khi B vào thì T rủ B đánh xóc đĩa và B đồng ý. Khoảng 05 phút sau, R điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 93H1 – 208.88 đến thì T cầm cái cho D, B, R đặt cược. Trong lúc T, D, B và R đang chơi xóc đĩa thì Đặng Văn V đến nhà của R để mua gà nhưng không gặp nên V gọi điện cho R thì R nói đang ở dưới vườn điều nên V đi đến vườn điều để gặp R. Tại đây, V thấy T, D, B và R đang chơi xóc đĩa thắng thua bằng tiền nên V cũng tham gia chơi.
Hình thức chơi xóc đĩa và cách thức thắng thua như sau: Người làm cái bỏ 04 quân vị hình tròn có hai mặt “trắng – đen” khác nhau vào 01 cái đĩa, lấy 01 cái bát (chén) úp lên rồi xóc, sau đó để xuống chiếu bạc. Những con bạc đặt tiền cược theo hai bên (bên chẵn và bên lẽ). Sau khi đặt tiền cược xong, người làm cái mở chén, nếu là chẵn thì người đặt bên chẵn thắng, người đặt bên lẽ thua, còn nếu là lẽ thì người đặt bên lẽ thắng, người đặt bên chẵn thua tương ứng với số tiền đã đặt cược. “Chẵn” là có 02 hoặc 04 quân vị cùng màu, “lẽ” là có 03 quân vị cùng màu, quân còn lại khác màu.
Nguyễn Quang T, Đặng Văn V, Mai Văn R, Nguyễn Thế D và Lê Văn B chơi cóc đĩa đến 14 giờ 45 phút cùng ngày thì Công an huyện B kết hợp cùng Công an xã Phú Văn tiến hành kiểm tra, phát hiện lập B bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đặng Văn V và Mai Văn R còn Nguyễn Quang T, Nguyễn Thế D và Lê Văn B chạy thoát.
Vậy chứng thu giữ gồm:
Thu giữ tại vị trí đánh bạc: 01 cái đĩa hình tròn màu trắng; 01 cái chén (bát) hình tròn màu trắng; 04 con vị; 01 cái kéo cắt giấy và số tiền 6.000.000 đồng.
Thu giữ tại hiên trường 01 xe mô tô biển số 93H – 243.17; 01 xe mô tô biển số 93T4 – 3442; 01 xe mô tô biển số 93K1 – 036.39; 01 xe mô tô biển số 93H1 – 208.88.
Thu giữ trên người của Đặng Văn V số tiền 2.200.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen.
Thu giữ trên người Mai Văn R số tiền 10.500.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu MassTel, không có pin.
Tổng số tiền Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã thu giữ là 18.700.000 đồng.
Ngày 01/02/2019 Nguyễn Thế D đến Công an huyện B đầu thú và khai nhận hành vi của mình.
Trong quá trình điều tra các bị cáo khai:
Đặng Văn V đem theo 2.500.000 đồng, V sử dụng 300.000 đồng để đánh bạc, đã thua hết số tiền này và trong lúc ngồi xem thì bị công ăn bắt. Mai Văn R đem theo 10.650.000 đồng, R sử dụng 150.000 để đánh bạc và thắng được 150.000 đồng, khi công an bắt R bỏ lại 300.000 đồng ở chiếu bạc còn số tiền 10.500.000 đồng R để trên người và bị công an thu giữ. Nguyễn Thế D có 800.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc, không thắng cũng không thua, khi công an bắt R bỏ lại 800.000 đồng ở chiếu bạc. Lê Văn B có 200.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc và đã thu hết số tiền này, đang ngồi xem thì bị công an vào bắt quả tang nên bỏ chạy. Nguyễn Quang T có 4.500.000 đồng sử dụng hết để đánh bạc, khi Công an bắt quả tang T đang thắng nhưng không biết được bao nhiêu, T bỏ hết tiền ở chiếu bạc rồi bỏ chạy.
Tổng số tiền Mai Văn R, Lê Văn B, Nguyễn Thế D, Nguyễn Quang T, Đặng Văn V sử dụng để đánh bạc trái phép là 6.000.000 đồng.
Tại Bản án số 52/2019/HSST ngày 30/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước quyết định:
1. Tuyên bố các bị cáo Lê Văn B, Nguyễn Quang T phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Văn B 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 cả Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra bản án có quyết định hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Thế D, Mai Văn R, Đặng Văn V, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 02/01/2020 Lê Văn B làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 09/01/2020 Nguyễn Quang T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Quang T xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Lê Văn B vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Quang T, đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Đối với bị cáo Lê Văn B, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo B, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HSST ngày 30/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong thời hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các điều 331, 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét việc rút yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Quang T là tự nguyện không bị ép buộc hay lừa dối phù hợp quy định của pháp luật cần chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo này.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn B: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu. Cụ thể bị cáo có 03 tiền án về các tội: Cố ý gây thương tích, bắt giữ người trái pháp luật, gây rối trật tự công cộng chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, làm người có ý cho xã hội mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tình tiết mới thể hiện gia đình có công cách mạng thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 không làm thay đổi căn bản những tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Mức án Tòa cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo 03 năm tù là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Do đó, kháng cáo của bị cáo Lê Văn B không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo B phải chịu theo quy định của pháp luật; bị cáo T không phải chịu.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Quang T.
[2] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn B.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn B 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm:
Bị cáo Lê Văn B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng). Bị cáo Nguyễn Quang T không phải chịu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án 30/2020/HS-PT ngày 04/05/2020 về đánh bạc
Số hiệu: | 30/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về