TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 30/2019/HSST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2019/HSST ngày 9 tháng 4 năm 2019, Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1974 tại Nam Định Nơi cư trú: Thôn A, xã TN, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế V và bà Đỗ Thị M; bị cáo có vợ và 02 người con lớn nhất sinh năm 1998 và nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án: Không; Tiền sự: ngày 11/7/2018, Nguyễn Mạnh C bị Uỷ ban nhân dân tỉnh B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 1600/QĐ-XPVPHC với số tiền 75.000.000 đồng về lĩnh vực kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ (đã nộp phạt). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/01/2019 đến ngày 11/01/2019 bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
2. Nguyễn Thành T, sinh năm 1984 tại Nam Định Nơi cư trú: thôn A, xã Đ, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân N và bà Nguyễn Thị N; Bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 5/01/2019 đến ngày 11/01/2019 bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
3. Phạm Văn L, sinh năm 1989 tại Nam Định Nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện BĐ, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Ng và bà Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/01/2019 đến ngày 11/01/2019 bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
4. Phạm Thế N, sinh năm 1984 tại Nam Định Nơi cư trú: tổ dân phố XX, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc T và bà Trần Thị S; Bị cáo có vợ và 02 người con lớn nhất sinh năm 2011 và nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/01/2019 đến ngày 11/01/2019 bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
5. Hồ Văn N, sinh năm 1986 tại Lâm Đồng Nơi cư trú: tổ dân phố X, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn V và bà Nguyễn Thị T; Bị cáo có vợ và 02 người con lớn nhất sinh năm 2006 và nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/01/2019 đến ngày 11/01/2019 bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 05/01/2019, Công an huyện BĐ phối hợp với Công an xã TN tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Nguyễn Mạnh C, Phạm Văn L, Hồ Văn N1, Nguyễn Thành T và Phạm Thế N đang đánh bạc thắng thua bằng tiền trong phòng khách nhà Nguyễn Mạnh C tại thôn A, xã TN. Tại chiếu bạc, Cơ quan công an thu giữ: 02 bộ bài tây (chưa sử dụng) và 52 lá bài tây (đã sử dụng) và 33.700.000 đồng, trong đó: 4.800.000 đồng tại vị trí ngồi của Nguyễn Mạnh C, 8.800.000 đồng tại vị trí của Phạm Văn L, 4.800.000 đồng tại vị trí của Hồ Văn N1, 6.900.000 đồng tại vị trí của Nguyễn Thành T, 7.000.000 đồng tại vị trí của Phạm Thế N, 800.000 đồng ở ngay giữa chiếu bạc và 600.000 đồng trong bịch nylon cạnh chiếu bạc. Kiểm tra trên người Phạm Văn L có: 4.500.000 và trên người Phạm Thế N có 9.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, các bị can khai nhận: Sau khi N1, N, C, T và L cùng ngồi uống rượu tại nhà của C, đến khoảng khoảng 14 giờ ngày 05/01/2019, thì rủ nhau lên phòng khách nhà C đánh bài ăn tiền thì tất cả đồng ý. Nguyễn Mạnh C sử dụng số tiền khoảng hơn 5.000.000 đồng để đánh bạc, đến khi bị bắt C thua hết hơn 200.000 đồng, còn lại 4.800.000đ để tại chiếu bạc; Phạm Văn L mang theo 20.000.000 đồng, nhưng cho T mượn 10.000.000 đồng để đánh bạc, còn L sử dụng số tiền 10.000.000 đồng để đánh bạc, đến khi bị bắt L thắng được số tiền 3.300.000 đồng; Nguyễn Thành T mang theo hơn 2.000.000 và mượn của L số tiền 10.000.000 đồng (tổng số tiền khoảng hơn 12.000.000đ) để đánh bạc, khi Công an đến bắt T thua hơn 5.000.000 đồng; Phạm Thế N mang theo 14.000.000 đồng, nhưng chỉ sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc, khi Công an đến bắt N thắng được 2.000.000 đồng; Hồ Văn N1 mang theo số tiền 5.000.000 đồng và sử dụng hết để đánh bạc, khi bị bắt N1 thua hết 200.000đ và còn lại 4.800.000 đồng dưới chiếu bạc.
Các bị can đánh bạc được gọi là “Cào liêng” thắng thua bằng tiền, hình thức chơi cụ thể: Dùng bộ bài tây 52 lá chia đều cho những người tham gia chơi mỗi người 3 lá bài. Sau đó, mỗi người chơi bỏ ra 100.000 đồng tiền đường (tiền đậu ban đầu). Người thắng ở ván bài trước là người có quyền tố đầu tiên, mỗi lần tố số tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Nếu người nào không tố thì úp bài coi như đã thua số tiền đường 100.000 đồng và lần lượt xoay vòng tới người tố tiếp theo. Cứ như vậy tới khi không còn ai tham gia tố thêm thì bắt đầu mở bài để phân định thắng thua. Bài ai lớn nhất thì ăn hết số tiền đặt cược trên chiếu bạc. Cách tính bài để phân định thắng thua như sau:
- Bài lớn nhất là bài có ba lá bài giống nhau (sáp) như: 333, 555, AAA, JJJ (trong đó ba con át (AAA) là lớn nhất, ba con hai (222) là nhỏ nhất).
- Bài lớn tiếp theo là bài có ba lá bài tạo thành liêng (sảnh) như: 123, 678, JQK, QKA (trong đó QKA cơ là lớn nhất, còn 123 bích là nhỏ nhất).
- Bài lớn tiếp theo là bài có ba lá bài tạo thành ba lá ba tiên (ảnh) như: JQK, JQJ, JKK… - Bài lớn tiếp theo là ba lá bài cộng lại tính điểm (nút), cao nhất là 9 điểm, giảm dần tới 0 điểm (bù) là nhỏ nhất (trong đó 9 điểm có át (A) cơ là lớn nhất, tiếp theo giảm dần là cơ, rô, nhép và bích (nhỏ nhất).
Trong quá trình đánh bạc các bị can thống nhất với nhau, nếu ván bài nào thắng được nhiều tiền thì sẽ bỏ ra 100.000 đồng để mua nước và thuốc lá. Nguyễn Mạnh C bỏ ra hai lần với số tiền 200.000 đồng, Phạm Văn L bỏ ra một lần 100.000 đồng, Nguyễn Thành T bỏ ra một lần 100.000 đồng, Phạm Thế N bỏ ra một lần 100.000 đồng, Hồ Văn N1 bỏ ra một lần 100.000 đồng.
- Về vật chứng vụ án:
+ 02 bộ bài tây (chưa qua sử dụng); 52 lá bài tây (đã qua sử dụng) và số tiền 38.200.000 đồng các bị can sử dụng để đánh bạc. Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện BĐ phục vụ công tác truy tố, xét xử.
+ Số tiền 9.000.000 đồng thu giữ trên người bị can Phạm Thế N, do N không sử dụng để đánh bạc, nên ngày 08/3/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho N.
Tại bản cáo trạng số: 30/CT-VKS.BĐ ngày 04/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 về tội “Đánh bạc” quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh đề nghị tuyên các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 phạm tội “Đánh bạc” Về hình phạt đề nghị:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Phạm Thế N từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Xử phạt bị cáo Hồ Văn N1 từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn L từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng, các bị cáo hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào ngày 05/01/2019, Hồ Văn N1, Phạm Thế N, Nguyễn Thành T và Phạm Văn L đến nhà của Nguyễn Mạnh C tại thôn 5, xã TN, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước để uống rượu. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì Nguyễn Mạnh C cùng Hồ Văn N1, Phạm Thế N, Nguyễn Thành T và Phạm Văn L rủ nhau lên phòng khách nhà C để đánh bài dưới hình thức Cào Liêng thắng thua bằng tiền. Các bị cáo đã sử dụng số tiền 38.200.000 đồng vào mục đích đánh bạc.
Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
Điều 321. Tội đánh bạc
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do coi thường pháp luật nên cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Xét toàn bộ vụ án, tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo đánh bạc thuộc hình thức nhiều người cùng tham gia với nhau, tham gia với vai trò đồng phạm.
Bị cáo Nguyễn Mạnh C trực tiếp tham gia đánh bạc với các bị cáo. Ngoài ra bị cáo còn sử dụng nhà của mình đang quản lý và chuẩn bị 03 bộ bài tây, để cùng với các bị cáo khác đánh bạc ăn thua bằng tiền. Như vậy bị cáo đồng phạm với vai trò là thực hành tích cực.
Các bị cáo Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 trực tiếp tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015. Các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 đang nuôi con nhỏ nên các bị cáo đươc hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Cần tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây (chưa qua sử dụng); 52 lá bài tây (đã qua sử dụng).
Cần tịch thu sung công quỹ: Số tiền 38.200.000 đồng các bị can sử dụng để đánh bạc.
[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 phạm “Tội Đánh bạc”
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 40.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Phạm Thế N 20.000.000 đồng Xử phạt bị cáo Hồ Văn N1 20.000.000 đồng - Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 20.000.000 đồng.
[2] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:
Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây (chưa qua sử dụng); 52 lá bài tây (đã qua sử dụng).
Tuyên tịch thu sung công quỹ: Số tiền 38.200.000 đồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng vụ án số 0009XXX ngày 11/3/2019 giữ Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng.)
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Thành T, Phạm Văn L, Phạm Thế N và Hồ Văn N1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 30/2019/HSST ngày 28/05/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 30/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về