TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC G, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 29/2021/DS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC BÁN HÀNG
Trong ngày 29/4/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc G, tỉnh Bắc G mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 236/2020/TLST- DS ngày 29/12/2020 về “Tranh chấp về hợp đồng hợp tác bán hàng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST - DS ngày 30/3/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2021/QĐST-DS ngày 14/4/2021 giữa:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn Phúc Thủy, xã Hợp Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Hoàng Quang quyền – sinh năm 1973;
Địa chỉ: Xóm 3, thôn Cậy, xã Long Xuyên, huyện Bình G, tỉnh Hải D. (Ông quyền có đơn xin vắng mặt) * Bị đơn: Công ty Cổ phần LMTD.
Địa chỉ: Lô 24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn T kéo dài, phường Dĩnh K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc G.
Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn Chung; chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
(vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Th và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Quang quyền thống nhất trình bày:
Qua người quen giới thiệu, chị Th biết đến Công ty Cổ phần LMTD, được cung những tài liệu liên quan đến Công ty: Giấy phép đã được Bộ y tế - Cục an toàn vệ sinh thực phẩm chứng nhận, được hưởng chương trình tri ân có khuyến mãi cao lại không rủi ro. Do tin tưởng vừa được mua sản phẩm sử dụng bảo vệ sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và được hưởng các chương trình tri ân hấp dẫn nên ngày 24/4/2015 chị Th đã ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng số 0097924/HĐ-LMTD với Công ty cổ phần LMTD.
Sau khi ký hợp đồng, chị Th đã mua của công ty 3 gói hàng (chủ yếu là sản phẩm Cao hồng sâm), giá mỗi gói sản phẩm là 9.888.000 đồng. Tổng cộng số tiền chị Th đã nộp vào Công ty Cổ phần LMTD là 29.664.000 đồng. Sau khi mua hàng và nộp tiền vào công ty, công ty có đưa cho chị Th 3 phiếu đặt hàng.
Kể từ ngày nộp tiền mua các sản phẩm trên đến nay, công ty chưa trả hàng cho chị Th, chị Th cũng chưa được nhận bất cứ tri ân nào. Số tiền chị Th nộp vào mua hàng của Công ty Cổ phần LMTD là tiền riêng của chị Th, không liên quan đến thành viên nào trong gia đình. Đối với những nhân viên (kế toán, thủ kho, người viết phiếu) của Công ty cổ phần LMTD mà chị đã từng gặp, làm việc thì chị Th không nhớ họ tên là gì, năm sinh bao nhiêu, địa chỉ ở đâu.
Đến năm 2017, chị Th phát hiện ra ngày 11/7/2016 Công ty cổ phần LMTD đã bị rút giấy phép kinh doanh bán hàng đa cấp do vi phạm Nghi định 42 của Bộ công thương và bị xử phạt 409 triệu đồng cộng với hàng ngàn đơn thư khiếu kiện của các cộng tác viên trên 54 thị trường.
Nay, chị Th yêu cầu Công ty Cổ phần LMTD phải trả cho chị số tiền 29.664.000 đồng tương đương 03 gói hàng đã mua nhưng chưa được trả sản phẩm. Ngoài ra chị Th không còn yêu cầu khởi kiện nào khác.
Tại Biên bản xác minh ngày 25/12/2020, đại diện phường Dĩnh K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc G cung cấp như sau: Công ty cổ phần LMTD vẫn đăng ký trụ sở tại địa chỉ N24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn T kéo dài, phường Dĩnh K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc G. Công ty không có hoạt động sản xuất kinh doanh gì và không còn treo biển hiệu tại địa chỉ trên, không có nhân viên để nhận văn bản, hiện công ty khác đã thuê lại để đặt trụ sở.
Tòa án đã niêm yết Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải....nhưng đại diện của Công ty cổ phần LMTD không đến Tòa án làm việc và cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thu thập tài liệu chứng cứ từ các vụ án khác do Cục Quản lý cạnh tranh nay là Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng- Bộ Công thương cung cấp cho Tòa án tài liệu liên quan đến Công ty cổ phần LMTD, bao gồm:
- Bản sao hồ sơ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty.
- Bản sao hồ sơ sửa đổi, bổ sung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty.
- Bản sao Quyết định số 252/QĐ-QLCT ngày 03/10/2016 của Cục Quản lý cạnh tranh về việc xử lý vụ việc cạnh tranh đối với Công ty. Trong Quyết định có nội dung: Công ty Cổ phần LMTD không làm thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 10, Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Công ty đã thực hiện hành vi ký Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp không bao gồm đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện hành vi ký Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 19- Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đào tạo cơ bản đối với người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 20- Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện hành vi duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với một người tham gia bán hàng đa cấp, vi phạm quy định tại điểm p khoản 1 Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Công ty đã vi phạm các quy định của Nghị định 42 về bán hàng đa cấp và quá trình hoạt động bán hàng đa cấp, Công ty đã có nhiều sai phạm nên Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương đã ra Quyết định xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh đối với Công ty. Ngoài hình thức phạt tiền, Cục quản lý cạnh tranh còn áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là “Áp dụng hình thức xử phạt bổ sung Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ-CP”, Công ty cổ phần LMTD không còn tư cách về mặt chủ thể để tham gia bán hàng đa cấp.
Ngày 14/4/2021, Tòa án mở phiên tòa lần thứ nhất nhưng do đại diện theo pháp luật của bị đơn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện theo pháp luật của bị đơn tiếp tục vắng mặt không lý do. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Quang quyền có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc G phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án. Nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Đại diện theo pháp luật của bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của chị Nguyễn Thị Th, buộc Công ty cổ phần LMTD phải trả cho chị Th số tiền 29.664.000 đồng.
Về án phí: Công ty cổ phần LMTD phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
- Kiến nghị, khắc phục vi phạm: Không
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Đại diện theo pháp luật của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 24/4/2015, Công ty cổ phần LMTD và chị Nguyễn Thị Th đã ký Hợp đồng hợp tác bán hàng số 0097924/HĐ-LMTD, thời gian là 01 năm và có hiệu lực pháp lý kể từ thời điểm hai bên ký kết. Căn cứ hợp đồng trên, chị Th có nộp tiền mua hàng của Công ty cổ phần LMTD nhưng đến nay chưa được giao đủ số hàng đã mua. Chị Th đã đòi nhiều lần nhưng Công ty chưa trả. Các bên không tự giải quyết được tranh chấp nên chị Th khởi kiện ra Tòa án. Quan hệ tranh chấp giữa chị Th với Công ty cổ phần LMTD là quan hệ dân sự giữa cá nhân không có giấy phép đăng ký kinh doanh với pháp nhân có giấy phép đăng ký kinh doanh về bán hàng đa cấp. Đây là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự (cụ thể là tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng)”. Bị đơn Công ty cổ phần LMTD có địa chỉ trụ sở tại Lô 24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn T kéo dài, phường Dĩnh K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc G nên Tòa án nhân dân thành phố Bắc G thụ lý giải quyết yêu cầu của chị Th là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của chị Th về việc buộc Công ty cổ phần LMTD phải trả 29.664.000 đồng (giá trị 3 gói hàng đã mua):
[3.1] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do chị Nguyễn Thị Th cung cấp, có căn cứ xác định: Ngày 24/4/2015, chị Th ký Hợp đồng hợp tác bán hàng số 0097924/HĐ-LMTD với Công ty cổ phần LMTD - trong thời gian Công ty được phép hoạt động bán hàng đa cấp. Chị Th đã nộp vào Công ty cổ phần LMTD 29.664.000 đồng để mua 03 gói sản phẩm Cao sâm với giá 9.888.000 đồng/1 gói sản phẩm. Công ty cổ phần LMTD chưa trả chị Th gói sản phẩm nào.
[3.2]. Ngày 03/10/2016, cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương có Quyết định về việc xử lý vụ việc cạnh tranh số 252/QĐ-QLCT đối với Công ty cổ phần LMTD. Tại Quyết định trên thì Công ty cổ phần LMTD đã bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ-CP.
[3.3]. Chị Th yêu cầu Công ty cổ phần LMTD phải trả 29.664.000 đồng tương đương giá trị của 03 gói hàng đã nộp tiền mua nhưng chưa được Công ty trả hàng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Do vậy Hội đồng xét xử nhận thấy cần chấp nhận yêu cầu trên của chị Th.
[5] Về án phí: Yêu cầu của chị Th được chấp nhận nên Công ty cổ phần LMTD phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 274, Điều 275, Điều 280 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 16 của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:
1. Buộc Công ty cổ phần LMTD phải trả chị Nguyễn Thị Th số tiền 29.664.000 đồng.
2. Về án phí: Công ty cổ phần LMTD phải chịu 1.483.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả chị Th số tiền 741.600 đồng là tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001783 ngày 29/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc G.
3. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
5. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.
Bản án 29/2021/DS-ST ngày 29/04/2021 về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng
Số hiệu: | 29/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về