Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh P tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2018/TLST- HNGĐ ngày 09/7/2018 về việc tranh châp hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐST- HNGĐ ngày 15/5/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Tẩn Thị L ( tức V ), sinh năm 1992; ĐKHKTT: Khu 9, xã L( nay là xã X), Huyện H, tỉnh P.

Bị đơn: Anh Trình Ngọc S, sinh năm 1988:

ĐKHKTT: Khu 9, xã L( nay là xã X), Huyện H, tỉnh P. (Chị L, anh S đều xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Nguyên đơn chị Tẩn Thị L trình bày: Chị và anh Trình Ngọc S kết hôn ngày 31/12/2009, đăng ký kết hôn tại UBND xã L( nay là xã X), Huyện H, tỉnh P trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hòa hợp hạnh phúc. Sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau thường xuyên xảy ra va chạm xô sát trong cuộc sống gia đình. Anh S đi đang lao động tại Đ có địa chỉ số nhà 118, ngõ 527, mục 2, đường Z, thị trấn B, Huyện H, Đài T, Đ. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn anh S.

Về con chung: Chị L xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Trình Gia H1, sinh ngày 03/8/2009. Hiện cháu H1 đang ở với bố mẹ đẻ anh S tại khu 9, xã L( nay là xã X), Huyện H, tỉnh P. Khi ly hôn chị nhất trí để cho bố mẹ đẻ anh S nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ chung và công sức đóng góp: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trình Ngọc S trình bày: Anh S xác nhận thời gian, thủ tục đăng ký kết hôn như chị L trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng anh sống cùng với bố mẹ đẻ anh tại khu 9, xã L( nay là xã X), Huyện H, tỉnh P. Đến năm 2016 vợ chồng anh đi xuất khẩu lao động tại Đ. Cuộc sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng tháng 5 năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chị L có quan hệ bất chính với người khác. Khoảng tháng 6 năm 2018 chị L về trở về Việt Nam. Khi chị L làm thủ tục ly hôn với anh thì anh đang lao động ở Đ, hiện nay anh đã trở về Việt Nam sinh sống, từ khi về Việt Nam anh và chị L cũng không liên lạc với nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn anh hoàn toàn nhất trí ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh S xác nhận vợ chồng có 01 con chung như chị L trình bày. Ly hôn anh S xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không đề nghị chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung và công sức đóng góp: Anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, vị đại diện VKSND tỉnh P phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứ của Tòa án đã tiến hành theo đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, vị đại diện VKSND tỉnh P đề nghị Tòa án xử cho chị Tẩn Thị L được ly hôn với anh Trình Ngọc S.Về con chung: Giao cháu Trình Gia H1, sinh ngày 03/8/2009 cho anh Trình Ngọc S trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh S không yêu cầu.

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe đương sự trình bày, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P.

XÉT THẤY

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Tẩn Thị L làm đơn xin ly hôn anh Trình Ngọc S tại Tòa án nhân dân tỉnh P. Trong đơn xin ly hôn, chị L trình bày anh Trình Ngọc S lao động tại Đ. Thời điểm Tòa án thụ lý vụ án về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình số 49/2018/HNGĐ-ST ngày 09/7/2018 anh S đang lao động tại Đ, Tại văn bản số 17104/QLXNC-P5 ngày 23/10/2019 của Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an xác nhận anh S xuất cảnh ngày 26/6/2016 và nhập cảnh ngày 05/10/2018. Căn cứ khoản 3 Điều 35, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh P thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Quan hệ tranh chấp được xác định trong vụ án là “tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Căn cứ Điều 471 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân tỉnh P không thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Tẩn Thị L và anh Trình Ngọc S là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do vợ chồng không hợp nhau, do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ nên chị L đề nghị được ly hôn anh S. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án anh S đang sinh sống và làm việc tại Đ. Tòa án tỉnh P đã ủy thác cho Văn phòng kinh tế - văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc tống đạt thông báo thụ lý của Tòa án cho anh S theo địa chỉ: số nhà 118, ngõ 527, mục 2, đường Z, thị trấn B, Hện H, Đài T, Đ. Hiện nay anh S đã trở về Việt Nam sinh sống, làm ăn, khi trở về Việt Nam anh S và chị L cũng không liên lạc với nhau, không ai quan tâm đến ai. Chị L xin ly hôn anh S hoàn toàn đồng ý và nhất trí ly hôn với chị L.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chông giữa chị L và anh S đã trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm và hiện không còn liên lạc, quan tâm đến nhau nên yêu cầu của chị Tẩn Thị L xin ly hôn anh Trình Ngọc S là có căn cứ cần được chấp nhận.

[2] Về con chung: Chị L và anh S xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Trình Gia H1, sinh ngày 03/8/2009. Chị L nhất trí để cháu H1 ở cùng ông bà nội để chị yên tâm đi làm ăn. Hiện nay cháu H1 đang sống với anh S, ly hôn anh S xin được trực tiếp nuôi nuôi cháu H1 và không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy giao cháu Trình Gia H1 cho anh Trình Ngọc S trực tiếp nuôi dưỡng, chị Tẩn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Trình Ngọc S do anh S không yêu cầu là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về tài sản chung, công nợ chung và công sức đóng góp: Do chị Tẩn Thị L và anh Trình Ngọc S không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Tẩn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; 81; 82; 83 và Điều 123 Luật hôn nhân và gia đình 2014; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; Điều 37; khoản 4 Điều 147; Điều 471 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Tẩn Thị L được ly hôn với anh Trình Ngọc S.

2. Về con chung: Giao cháu Trình Gia H1, sinh ngày 03/8/2009 cho anh Trình Ngọc S trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu H1 thành niên. Chị Tẩn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh Trình Ngọc S. Chị L có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Tẩn Thị L phải chịu 300.000đ tiền án phí sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đ ồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm do chị Tẩn Thị L đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 009909 ngày 06/7/2018 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh P.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7a,7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo để đề nghị Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:29/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;