TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2018/TLST - HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐXXST – HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Mai Văn Th, sinh năm 1969, tại Thanh Hóa; nơi ĐKNKTT: Thôn Đại Sơn, xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú thôn Tân Thành, xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Văn B ( đã chết) và bà Đào Thị Nh ( đã chết); vợ Phan Thị H; con có 2 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 1997; Tiền án: không. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 03/12/2015 bị Công an huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa ra quyết định xử phạt hành chính 2.000.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản, Th đã nộp tiền phạt, tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội Th coi như chưa bị xử lý hành chính. Ngày 05/7/2018 Công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ra quyết định số 159/QĐ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, phạt tiền 2.000.000đồng, bị cáo đã nộp tiền phạt; Tại bản án số 44/2018/HSST ngày 01/8/2018 của TAND huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù vể tội “ Trộm cắp tài sản” Bị cáo đang thi hành Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Lưu Việt C, sinh năm 1980, tại Thanh Hóa; nơi ĐKNKTT: Thôn Tinh Hoa, xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lưu Xuân Đ và bà Hoàng Thị Ph; vợ Vũ Thị Ph ( đã ly hôn); con có 1 con sinh năm 2010; Tiền án: không. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 05/7/2018 Công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ra quyết định số 158/QĐ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, phạt tiền 1.500.000đồng, bị cáo đã nộp tiền phạt; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/6/2018 đến ngày 12/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo đang thi hành Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại:
1) Anh Trần Văn V, sinh năm 1980, trú tại thôn Phù Xa, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, ( vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1969, trú tại thôn Y Ngô, xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa ( Vắng mặt)
+ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967, trú tại thôn Phù Xa, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, ( Vắng mặt).
Người làm chứng: Chị Phan Thị H, sinh năm 1975, trú tại Thôn Đại Sơn, xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. ( Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 16/5/2018 Mai Văn Th điện thoại cho Lưu Việt C rủ C đi trộm cắp tài sản, C đồng ý, Th hẹn đón C ở chợ Đò Lèn, thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Th chuẩn bị một ba lô nhãn hiệu Sam Sonite màu đỏ - đen, bên trong có chiếc đục sắt soắn phi 18 dài 40cm; 01 chiếc bì xác rắn màu gạch cua rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Future BKS 16L6 – 9423 xe đăng ký mang tên Nguyễn Trường G, Th đi đến chợ đò Lèn đón C. Cả hai đi theo Quốc lộ 1A rẽ đi huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đến huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Sau đó đi lên địa bàn xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Khi đi đến Đình Đông, thuộc khu di tích lịch sử văn hóa Đình làng Phù Sa, thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, vào khoảng 8 giờ ngày 16/5/2018. Quan sát thấy vắng người, Th dừng xe, lấy trong ba lô ra 01 bao bì xác rắn và 01 chiếc đục sắt soắn phi 18 đưa cho C và nói “ cháu vào bên trong, còn cậu ở ngoài canh coi” C cầm bao bì nhét vào cạp quần, tay cầm chiếc đục sắt trèo qua tường bao vào trong sân Đình. Còn Th điều khiển xe đi tiếp cách khoảng 100m đứng lại cảnh giới. C vào bên trong Đình đi đến khu nhà phía Nam, đu vào khung sắt ô thoáng của gian Hậu cung leo lên mái của gian Trung Đường sau đó xuống sân phía trước của gian Trung đường. Thấy cửa khóa, C dùng chiếc đục luồn vào khung sắt bẩy cho bung ra khỏi khóa. Vào trong C đi đến ban thờ Thánh Áp Lãng, lấy 01 nậm rượu sứ, mở hộp trên ban thờ lấy 01 sắc phong bỏ vào bao bì, rồi tiếp tục đi sang ban thờ Thánh Đông Phương mở hộp gỗ lấy 01 sắc phong, đi tiếp đến ban thờ thánh Thái Giám và Thiên Quan mở hộp gỗ lấy 2 sắc phong và 2 nậm rượu sứ trên ban thờ bỏ vào bao bì. Sau đó C đi sang gian Trung Đường thấy cạnh ban thờ Cộng Đồng có 01 hòm công đức bằng nhôm kính, bên trong có nhiều tiền loại mệnh giá khác nhau C lấy đục sắt bẩy làm vỡ kính, lấy toàn bộ số tiền bên trong hòm được 700.000đồng bỏ vào túi quần và đi ra ngoài. Th điều khiển xe đến đón C, C nói đã lấy được 4 sắc phong, 03 nậm rượu sứ. Riêng số tiền 700.000đồng C không nói cho Th biết mình đã lấy. Khi về tới Đò Lèn, tại đây C đưa đục sắt và bao bì đựng tài sản trộm cắp được cho Th, Th đưa trước cho C 200.000đồng. Th mang tài sản trộm cắp được về nhà cất giấu. Ngày 18/5/2018 Th bán 01 chiếc nậm sứ cho anh Nguyễn Văn Th.
Ngày 11/6/2018 Mai Văn Th đến cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Mô giao nộp 04 sắc phong bằng giấy cũ mầu vàng cánh gián và 02 chiếc nậm rượu sứ; anh Nguyễn Văn Th giao nộp 01 chiếc nậm rượu sứ.
Ngày 01/8/2018 cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Mô ra quyết định trưng cầu giám định để xác định các tài sản trên mà C và Th trộm cắp có phải là di vật hay cổ vật.
Tại bản kết luận giám định số: 01 ngày 08/8/2018 của phòng quản lý di sản – Sở Văn Hóa thông tin và thể thao tỉnh Ninh Bình kết luận: Sắc phong ngày 8 tháng 10 niên hiệu Duy Tân thứ 6 – 1911, sắc phong cho Phù Sa phụng sự thần Đông Phương, là Cổ vật; Sắc phong ngày 18 tháng 3 niên hiệu Khải Định thứ 6 – 1917, sắc phong cho Phù Sa phụng sự thần Đông Phương Đại Vương, là Cổ vật; Sắc phong ngày 24 tháng 11 niên hiệu Tự Đức thứ 33 – 1880, sắc cho các xã Yên Tốt và Đông Cao phụng thờ các thần Triệu Việt Vương và Áp Lãng Chân Nhân, là di vật; Sắc phong ngày 25 tháng 11 niên hiệu Thành Thái thứ 18, sắc cho xã Phù Sa phụng thờ Thiên Quan, là Di Vật.
Đối với 03 nâm rượu sứ trong hồ sơ xếp hạng di tích đình Phù Sa lập năm 1999 không có bản thống kê hiện vật, do đó không có căn cứ xác định là di vật hay cổ vật.
Tại bản kết luận định giá trong tố tụng hình sự số 18 ngày 28/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Yên Mô đã kết luận giá trị của 04 sắc phong, 03 nậm sứ tại thời điểm định giá ngày 16/5/2018 có tổng trị giá là 25.200.000đồng.
Ngoài ra Mai Văn Th và Lưu Việt C còn thực hiện hành vi trộm cắp tại xóm 13 xã Quang Thiện, huyện Kim sơn. Khi thực hiện hành vi bị phát hiện. Công an huyện Kim Sơn đã thu giữ 01 xe mô tô BKS 16L6 – 9423 nhãn hiệu Futrure; 01 điện thoại nhãn hiệu Sam sung; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC; 01 áo sơ mi kẻ caro đã qua sử dụng; 01 đôi giày đã qua sử dụng; 01 quần vải màu ghi; 01 đôi giày thể thao; 01 đục sắt soắn phi 18. Trong quá trình giải quyết ngày 14/6/2018 Cơ quan CSĐT công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình chuyển toàn bộ số vật chứng trên đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình để giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản cáo trạng số: 31/CT – VKS - YM ngày 01 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố các bị can Mai Văn Th và Lưu Việt C ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô để xét xử về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố các bị cáo Mai Văn Th và Lưu Việt C phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự; ( riêng bị cáo C còn được hưởng điểm i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự) ( áp dụng thêm Điều 56 BLHS đối với Mai Văn Th)
- Xử phạt: Mai Văn Th từ 12 đến 15 tháng tù. Tổng hợp với bản án số 44/2018/HSST ngày 01/08/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã xử Mai Văn Th 30 ( ba mươi) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Được trừ đi 27 ngày tạm giữ, tạm giam. Còn lại buộc Mai Văn Th phải thi hành, thời gian phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
- Xử phạt: Lưu Việt C từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao Lưu Việt C cho Ủy ban nhân dân xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Truy thu đối với Lưu Việt C số tiền 200.000đồng nộp ngân sách nhà nước.
Áp dụng Điều 136; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà Nước:
+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Future, màu sơn đỏ đen, số máy: JC35E – 0065241, số khung : JC35005Y – 065185, BKS 16L6 - 9423 đăng ký mang tên Nguyễn Trường G.
+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại SM – B312E, màu trắng, có số IMEL 357078/06/32727/2.
+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC, có số IMEL: 358035055423937.
Tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi kẻ caro đã qua sử dụng, màu sọc đỏ - trắng – đen, trên cổ áo có ghi nhãn hiệu TT&K; 01 quần vải màu ghi cũ đã qua sử dụng; 01 đôi giày đã qua sử dụng bằng da, màu nâu, cỡ 38, trên giày ghi dòng chữ “ Fashion Shoes”; 01 đục sắt soắn phi 18, dài 40cm, một đầu nhọn, một đầu cắt bằng; 01 ba lô nhãn hiệu Sam Sonite đã qua sử dụng màu đỏ - đen; 01 áo phông dài tay đã qua sử dụng, màu đen, mặt trước có dòng chữ “ DSQUARED2” ; 01 đôi giày thể thao màu trắng sọc đỏ, trên mặt có ghi dòng chữ Asiasports ; 01 bao bì xác rắn màu gạch cua, kích thước ( 58 x 94) cm có chữ URAE. chiếc sim điện thoại có số thuê bao 01292957126; chiếc sim điện thoại có số thuê bao 01257079855.
Án phí: Buộc Mai Văn Th, Lưu Việt C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Các bị cáo cho rằng bị xét xử là đúng người, đúng tội và đề nghị được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Lời khai của các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để xác định vào ngày 16/5/2018 lợi dụng sơ hở của Thủ Từ, tại Đình Đông khu di tích lịch sử Đình làng Phù Sa, thuộc địa bàn xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, không có người trông coi. Mai Văn Th và Lưu Việt C đã lén lút phá chốt cửa của Đình Đông, lấy trộm 04 sắc phong, 03 nậm rượu sứ, có tổng trị giá 25.200.000đồng. Ngoài ra Lưu Việt C còn cạy phá hòm công đức lấy 700.000đồng. Nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu sài cá nhân.
Hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, Mai Văn Th và Lưu Việt C đã trộm cắp tài sản có trị giá 25.200.000đồng; Ngoài ra Lưu Việt C còn trộm cắp tiền công đức 700.000đồng. Đối chiếu với quy định của pháp luật, đã có đủ cơ sở để kết luận hành vi của các bị cáo Mai Văn Th và Lưu Việt C đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại khoản 1 Điều 173 BLHS quy định“ Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a…”
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an tại địa phương, là nơi tâm linh tín ngưỡng, nơi được xếp hạng di tích lịch sử, gây bất an trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, hành vi trộm cắp tài sản mà các bị cáo đã thực hiện, cần phải xử lý nghiêm minh, để giáo dục cải tạo các bị cáo và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, thì cần thiết phải cách ly bị cáo Mai Văn Th ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo tự suy nghĩ về việc làm của mình để tự sửa chữa trở thành công dân tốt.
Đối với Lưu Việt C, bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/6/2018 đến ngày 12/9/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú. C là người thực hành khi được Th rủ, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã ly hôn vợ theo quyết định của Tòa án bị cáo đang nuôi con, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng với thời gian tạm giam 3 tháng đã đủ cho bị cáo nhận thức về hành vi phạm tội của mình, nên xét thấy chưa cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo C ra khỏi đời sống chung của xã hội, để bị cáo có cơ hội tự sửa chữa mình, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương với hình phạt tù cho hưởng án treo là phù hợp, để tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.
[4] Về vị trí vai trò: Trong vụ án Mai Văn Th là người giữ vai trò chính của vụ án, bị cáo là người rủ bị cáo C đi trộm cắp tài sản, bị cáo chuẩn bị sẵn 01 chiếc đục sắt soắn, 01 bao bì xác rắn và là người chở bị cáo C đi trộm cắp nên trong vụ án bị cáo là người giũ vai trò chính và phải chịu mức hình phạt cao hơn so với C
Đối với Lưu Việt C khi được Th rủ đã nhiệt tình tham gia, bị cáo là người thực hiện vào Đình Đông để trộm cắp do đó bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với hành vi mà mình đã thực hiện.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo; Bị cáo C đã bồi thường số tiền trộm cắp cho người bị hại; bị cáo Th tích cực hợp tác với cơ quan điều tra tìm lại tài sản để trả lại cho chủ tài sản nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bố của bị cáo Th là người có công với Cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến; bố bị cáo C là người có công với cách mạng được hưởng chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo C lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Về nhân thân:
+ Ngày 05/7/2018 cả hai bị cáo đều bị Công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản ( Phạt tiền bị cáo Th 2.000.000đồng, bị cáo C 1.500.000đồng; các bị cáo đã chấp hành nộp phạt).
+ Đối với Mai Văn Th, tại bản án số 44/2018/HSST ngày 01/8/2018 của TAND huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù vể tội “ Trộm cắp tài sản” Bị cáo đang hoãn chấp hành án phạt tù với thời hạn là 12 tháng. Theo quyết định số 02/2018/QĐ-CA ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đối với bản án mà Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa đã xét xử đối với bị cáo, không được coi là tiền án nhưng thể hiện Mai Văn Th là người có nhân thân xấu, cũng là điều kiện để cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với Mai Văn Th.
[8] Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo C đã tự nguyện bồi thường số tiền 700.000đồng cho người bị hại; số tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Do đó trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét giải quyết.
[9] Các biện pháp tư pháp: Theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Future, màu sơn đỏ đen, BKS 16L6 - 9423 đăng ký mang tên Nguyễn Trường G là phương tiện dùng vào việc phạm tội, quá trình điều tra xác định xe bị cáo Th mua chưa sang tên đổi chủ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung, loại SM – B312 E, mầu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC là phương tiện các bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi trộm cắp cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước .
+ Đối với số tiền 200.000đồng mà C có được do Th đưa sau khi trộm cắp được cần truy thu Sung quỹ nhà Nước.
+ Đối với 01 áo kẻ sơ mi kẻ ca ro; 01 quần vải ghi; 01 đôi giày bằng da; 01 đục sắt; 01 ba lô; 01 áo phông dài tay; 01 đôi giày thể thao và 01 bì sắc rắn là những dụng cụ, vật dụng làm phương tiện để các dùng vào việc phạm tội đều đã cũ hỏng không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
[10] Quá trình điều tra các bị cáo còn khai, các bị cáo còn trộm cắp ở phủ Mẫu Tè, thuộc thôn Quảng Hạ, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô. Trộm 01 tượng kim loại bằng đồng, 01 bát hương, 01 sắc phong, 05 chén sứ. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu định giá tài sản. Tại bản kết luận của Hội đồng định giá tài sản, kết luận 05 chén sứ mới có giá trị 28.000đồng; đối với 01 tượng kim loại bằng đồng, 01 bát hương, 01 sắc phong. Tất cả tài sản này do không xác định được niên đại, không có tài liệu chứng minh về tài sản nên Hội đồng không có căn cứ định giá. Do đó Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Mô đã tách hành vi của Mai Văn Th và Lưu Việt C để tiếp tục điều tra theo quy định của pháp luật .
Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô, khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Mai Văn Th có thu giữ 01 đôi đĩa sứ tròn thời Pháp; 01 đôi đĩa sứ tròn thời Nhật; 03 đôi đĩa sứ tròn thời địa chủ; 01 đôi đĩa sứ tròn thời bao cấp; 01 đôi nậm sứ tròn thời địa chủ; 01 mận Long ám thời địa chủ; 01 nậm Sơn Thủy thời địa chủ; 01 đôi bát úp thời bao cấp; 01 đôi chén thời bao cấp; 01 bình vôi giả và 01 quyển sổ nhỏ. Quá trình điều tra xác định những tài sản trên là tài sản hợp pháp của Mai Văn Th không liên quan đến việc phạm tội, nên cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định pháp luật.
[11] Trong vụ án này còn có anh Nguyễn Văn Th là người đã mua chiếc nậm rượu sứ do Mai Văn Th bán, khi mua anh Th không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên anh Th không vi phạm pháp luật.
[12] Về Tổng hợp bản án: Tại bản án số 44/2018/HSST ngày 01/8/2018 của TAND huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã xét xử bị cáo Mai Văn Th, xử phạt bị cáo 30 tháng tù giam vể tội “ Trộm cắp tài sản”. Được trừ đi 27 ngày tạm giữ, tạm giam, còn lại phải chấp hành 29 tháng 3 ngày. Khi quyết định hình phạt đối với bản án này cần tổng hợp với bản án số 44/2018/HSST ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc – tỉnh Thanh Hóa buộc Thắng phải thi hành chung cho hai bản án theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự..
[13] Các Bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
[14] Các bị cáo; người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự; ( riêng bị cáo C còn được hưởng điểm i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự) ( áp dụng thêm Điều 56 BLHS đối với Mai Văn Th) Điều 136; Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
1.1 Tuyên bố: Các bị cáo Mai Văn Th, Lưu Việt C phạm tội “ Trộm cắp tài sản”
1.2 Về hình phat:
1.2.1: Xử phạt: Mai Văn Th 12 ( mười hai) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” - Tổng hợp với bản án số 44/2018/HSST ngày 01/08/2018 Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đã xử phạt Mai Văn Th 30 ( ba mươi) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Được trừ đi 27 ngày tạm giữ, tạm giam. Còn lại phải chấp hành 29( hai mươi chín) tháng, 03 ( ba) ngày tù. Tổng hợp hình phạt với bản án này, buộc Mai Văn Th phải chấp hành chung cho hai bản án là 41( bốn mươi mốt) tháng, 03 ( ba ) ngày tù, thời gian phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
1.2.2: Xử phạt: Lưu Việt C 09 ( chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao Lưu Việt C cho Ủy ban nhân dân xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự. “ trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”
2. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
2.1 Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước
+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Future, màu sơn đỏ đen, số máy: JC35E – 0065241, số khung : JC35005Y – 065185, BKS 16L6 - 9423 đăng ký mang tên Nguyễn Trường Giang.
+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại SM – B312E, màu trắng, có số IMEL 357078/06/32727/2.
+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC, có số IMEL: 358035055423937.
2.2. Truy thu số tiền 200.000đồng đối với Lưu Việt C để nộp ngân sách nhà Nước
2.3 Tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi kẻ caro đã qua sử dụng, màu sọc đỏ - trắng – đen, trên cổ áo có ghi nhãn hiệu TT&K; 01 quần vải màu ghi cũ đã qua sử dụng; 01 đôi giày đã qua sử dụng bằng da, màu nâu, cỡ 38, trên giày ghi dòng chữ “ Fashion Shoes”; 01 đục sắt soắn phi 18, dài 40cm, một đầu nhọn, một đầu cắt bằng; 01 ba lô nhãn hiệu Sam Sonite đã qua sử dụng màu đỏ - đen; 01 áo phông dài tay đã qua sử dụng, màu đen, mặt trước có dòng chữ “ DSQUARED2” ; 01 đôi giày thể thao màu trắng sọc đỏ, trên mặt có ghi dòng chữ Asiasports ; 01 bao bì xác rắn màu gạch cua, kích thước ( 58 x 94) cm có chữ URAE; chiếc sim điện thoại có số thuê bao 01292957126; chiếc sim điện thoại có số thuê bao 01257079855. ( Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/11/2018 giữa công an huyện Yên Mô với Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc Mai Văn Th, Lưu Việt C mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự;
Án xử công khai sơ thẩm báo để các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 29/2018/HSST ngày 22/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 29/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về