Bản án 282/2021/HSST ngày 30/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 282/2021/HSST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình S thụ lý số 284/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 295/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Vi Văn S, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1987 tại TH; Nơi cư trú: Xóm N, xã Q, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Vi Văn P, sinh năm 1954 và con bà Bùi Thị L, sinh năm 1954; Bị cáo có vợ là Đinh Thị H, sinh năm 1989 (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, nhân thân: Không;

Tiền sự: Tại Quyết định số 36/2019/QĐ –TA ngày 15/01/2019 Tòa án nhân dân thành phố TH áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong ngày 26/02/2020.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH. Bị cáo bị bắt từ ngày 24/3/2021cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa)

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Đức C, sinh năm 1967, trú tại: Tổ X, phường H, thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 35 phút ngày 24/3/2021, tại khu vực bia tưởng niệm thuộc tổ X, phường H, thành phố TH, tổ công tác công an phường H phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên khai tên là Vi Văn S và tự giác lấy trong lòng bàn tay phải giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa bột màu trắng. S khai là ma túy loại Heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số chất bột màu trắng có trong gói giấy bạc màu vàng có khối lượng là 0,162 gam, sau đó lấy 0,070 gam cho vào một bì niêm phong ký hiệu S gửi giám định. Còn lại 0,092 gam đưa vào một phong bì dán kín ký hiệu S1 để lưu kho.

Tại bản Kết luận giám định số 650/KL - KTHS ngày 01/4/2021 của phòng Kỹ thuật hình S Công an tỉnh TH kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu S gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 0,162 gam.

Tại cơ quan điều tra, Vi Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ.

Vật chứng của vụ án:

+ 02 (hai) bì niêm phong ký hiệu S, S1 Cáo trạng số 297/CT-VKSTPTN ngày 27/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo Vi Văn S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Vi Văn S khai nhận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 24/3/2021, Vi Văn S đi xe ôm từ nhà đến khu vực cầu G, thành phố TH mục đích tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, S gặp và mua 01 gói ma túy là Heroine được bọc gói bên ngoài bằng lớp giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng của 01 nam giới không quen biết. Sau khi mua xong S cầm ma túy trong lòng bàn tay phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực bia tưởng niệm thuộc tổ X, phường H, thành phố TH thì bị Công an phường H, thành phố TH phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Vi Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS: Xử phạt Vi Văn S từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu S (bên trong chứa vỏ bao gói mẫu S) và 01 bì niêm phong ký hiệu S1 (bên trong chứa ma túy) * Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình S sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như bản cáo trạng truy tố là không oan, đúng người, đúng tội.

Lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng S khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 11 giờ 35 phút ngày 24/3/2021 tại khu vực tổ X, phường H, thành phố TH, Vi Văn S đang có hành vi tàng trữ 0,162 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường H, thành phố TH phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của Vi Văn S đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Nội dung điều luật:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b...

c, Methamphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Cần phải xét xử bị cáo mức án nghiêm phù hợp với hành vi bị cáo gây ra, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án. Song bị cáo là người nghiện ma túy từ năm 2017 cho đến nay, năm 2019 đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng tại Quyết định số 36/2019/QĐ – TA ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố TH, chấp hành xong ngày 26/02/2020 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình S theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình S. Xét cần phải có mức án nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy:

+ 01(một) bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu S bên trong chứa ma túy, hoàn trả 0,056 gam mẫu S còn lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH có chữ ký của Trần Đức T.

+ 01(một) bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu S1 bên trong chứa 0,092 gam ma túy, mặt sau phong bì có 03 dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT - Công an thành phố TH có chữ ký của Trần Trung B, Nguyễn Hữu H, Trần Đức T, Vi Văn S, Nguyễn Đức C, Trần Văn H.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Vi Văn S khai mua một nam giới không quen biết tại khu vực cầu G, phường Đ, thành phố TH. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Vi Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS: xử phạt Vi Văn S 21(Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/3/2021.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 01(một) bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu S bên trong chứa ma túy, hoàn trả 0,056 gam mẫu S còn lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình S Công an tỉnh TH có chữ ký của Trần Đức T và 01(một) bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu S1 bên trong chứa 0,092 gam ma túy, mặt sau phong bì có 03 dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT - Công an thành phố TH có chữ ký của Trần Trung B, Nguyễn Hữu H, Trần Đức T, Vi Văn S, Nguyễn Đức C, Trần Văn H.

(Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 425 ngày 01/6/2021giữa Công an thành phố TH và Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH, tỉnh TH).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 282/2021/HSST ngày 30/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:282/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;