Bản án 28/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 23/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nông Văn T, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1991 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn L, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nông Văn Đ (đã chết); con bà: Đinh Thị K, sinh năm 1962; có vợ: Hứa Thị T và 01 con sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 23/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng; nhân thân: Ngày 23/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 05 tháng 3 năm 2021 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đinh Thị K, sinh năm 1962; trú tại: Thôn L, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 30 phút ngày 05 tháng 3 năm 2021 tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện C đang làm nhiệm vụ tại thôn T, thị trấn Đ, huyện C, phát hiện bắt quả tang Nông Văn T đang tàng trữ trái phép 03 (ba) ống hút nhựa các màu (cam, vàng, xanh) được hàn kín hai đầu, tất cả bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine trong túi quần đằng trước, bên phải; 01 (một) xilanh loại 03ml/cc trong túi quần đằng trước, bên trái của T đang mặc. T khai nhận chất bột màu trắng bên trong các ống hút là chất ma túy Heroine T vừa nhờ một người đàn ông làm nghề xe ôm (T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) mua tại thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang với giá 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) mang về với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chi Lăng đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nông Văn T nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số: 111/KL-PC09 ngày 06 tháng 3 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 03 (ba) ống hút nhựa thu giữ của Nông Văn T đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,129 gam (đã trừ bì).

Cáo trạng số: 30/CT-VKSCL ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn T khai nhận bản thân nghiện ma túy Heroine từ năm 2009, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên sáng ngày 05 tháng 3 năm 2021 bị cáo đón xe khách xuống thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang nhờ một người đàn ông làm nghề xe ôm không quen biết mua hộ 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) tiền ma túy Heroine đựng trong 04 (bốn) ống hút nhựa màu sắc khác nhau được hàn kín hai đầu. Mua được ma túy bị cáo tìm chỗ vắng người và sử dụng hết 01 (một) ống hút nhựa ma túy bằng hình thức chích, sau khi sử dụng ma túy xong bị cáo bắt xe khách đi về nhà. Khi đi đến khu vực thôn T, thị trấn Đ, huyện C, T xuống xe và đi bộ vào hướng Đ thuộc xã Q, huyện C thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá tính chất, động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, đánh giá về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Căn cứ các điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo Nông Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định và 01 xilanh loại 03ml/cc cũ đã qua sử dụng.

Phần tranh luận: Bị cáo Nông Văn T không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đinh Thị K không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án vì trong hồ sơ đã có đủ lời khai của của bà K nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Nông Văn T đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cụ thể: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05 tháng 3 năm 2021, tại thôn T, thị trấn Đ, huyện C, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện C phát hiện bắt quả tang Nông Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 03 (ba) ống hút nhựa màu sắc khác nhau, tất cả bên trong chứa ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,129 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nông Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Cáo trạng số 30/CT-VKSCL ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo Nông Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự của địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhận thức được tác hại của ma túy đối với con người và những ảnh hưởng tiêu cực của ma túy đối với mọi mặt của đời sống xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[6] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử ngoài việc xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, còn phải đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Cụ thể như sau: Về nhân thân: Bị cáo Nông Văn T là người có nhân nhân không tốt do là đối tượng nghiện ma túy, có tiền sự chưa được xóa. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố đẻ là ông Nông Văn Đ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, điều này phù hợp với kết quả xác minh của Cơ quan Điều tra và với đề nghị của Viện kiểm sát.

[9] Về vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và 01 xi lanh loại 03 ml/cc đã qua sử dụng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định;

[10] Đối với người đàn ông làm nghề xe ôm đã mua hộ ma túy cho Nông Văn T tại khu vực thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, do bị cáo không biết được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này nên không có đủ căn cứ để điều tra, xác minh và xử lý.

[11] Về án phí: Do bị cáo Nông Văn T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[12] Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị về tội danh, về hình phạt đối với bị cáo Nông Văn T và về xử lý vật chứng là có căn cứ.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38; 50; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2, 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nông Văn T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 05 tháng 3 năm 2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư ký hiệu số “01” (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh T, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy đựng 0,104 gam ma túy Heroine (phần hao hụt do sử dụng làm mẫu vật giám định hết) và các vỏ bao gói; 01 (một) xilanh loại 03ml/cc đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Chi Lăng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C lập ngày 25 tháng 5 năm 2021).

4. Về án phí: Bị cáo Nông Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hình sự để sung công quỹ Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;