Bản án 28/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Giàng A L (Tên gọi khác: Không), sinh năm: 1968 tại huyện X, tỉnh Y. Nơi cư trú: …; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A T (đã chết) và bà Sùng Thị S(đã chết); Bị cáo có vợ là Thào Thị T(sinh năm: 1988) và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, từ ngày 22/01/2020 đến ngày 31/01/2020, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào năm 2018 (không nhớ cụ thể thời điểm), Giàng A L, sinh ngày 15/7/1968, trú tại bản … đi chơi trong bản đã gặp một người đàn ông đi mua gà, lợn trong bản .., người đàn ông này tự giới thiệu tên là Lợi nhà ở Nậm Cáy – Hoang Thèn (Họ tên thật, địa chỉ cụ thể Lùng không biết). Đến khoảng đầu tháng 01 năm 2020 khi L đang đi chơi trong bản đã gặp Lợi đi cùng một thanh niên khoảng 20 tuổi, Lợi giới thiệu người thanh niên này tên là Tu em trai Lợi (Lợi không biết tên thật, địa chỉ cụ thể của Tu). Qua trao đổi Lợi cho L hai số điện thoại: 0399.261.847 và 0966. 988.181 và nói khi nào Lợi cần mua Heroine Lợi sẽ gọi điện nhờ L mua hộ, L đồng ý và đưa điện thoại của Lùng để Lợi lưu hai số điện thoại của Lợi vào danh bạ điện thoại của L. Đến khoảng 11 giờ ngày 22 tháng 01 năm 2020 L một mình điều khiển xe máy của gia đình đi đến bản Tả Tê – Mù Sang – Phong Thổ chơi, khi đến khu vực ngã ba giữa bản Tả Tê – Mù Sang Lùng gặp Tu, qua nói chuyện, L được Tu nhờ đi mua Heroine hộ để đem về cho Tu sử dụng và L sẽ được Tu cho sử dụng Heorine cùng, L đồng ý, Tu đưa cho Lùng 600.000 đồng (Gồm 3 tờ tiền mệnh giá 200.000) và đứng đợi tại khu vực ngã ba bản Tả Tê – Mù Sang. L cầm tiền của Tu đi đến nhà Vàng Thị Ch, sinh năm 1975, trú tại bản Tả Tê – Mù Sang hỏi mua được của Chư 02 gói Heroine đều được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng (01 gói, được gói đốt xoắn lại một đầu; 01 gói được gói xoắn lại một đầu) với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được Heroine L cho hai gói Heroine cùng 100.000 đồng tiền thừa do Ch trả lại vào trong túi quần phía sau bên phải đang mặc đi về gặp Tu. Khoảng 13 giờ cùng ngày L đi về chỗ Tu đang đợi và nói với Tu đã mua được 02 gói Heorine với giá 500.000 đồng, đồng thời L lấy 01 gói Heorine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng gói xoắn lại một đầu đưa cho Tu để cùng nhau sử dụng. Tu cầm gói Heorine L đưa cho và bảo L đi ra khu vực căn nhà xây đang bỏ hoang cách ngã ba thuộc bản Tả Tê - Mù Sang 45m để cùng nhau sử dụng, L nhất trí. Khi đi đến phía đầu căn nhà xây bỏ hoang, Tu ngồi xuống mở gói Heorine do L vừa đưa cho Tu và đặt xuống đất ngay phía trước mặt L và Tu, còn L lấy bật lửa và bao thuốc lá ra định bóc giấy bạc để cùng sử dụng Heroine với Tu (hít). Vào hồi 12 giờ 00 phút cùng ngày 22/01/2020 trong lúc L và Tu đang chuẩn bị sử dụng gói Heorine thì nhìn thấy tổ công tác Công an huyện Phong Thổ, Tu bỏ chạy thoát được còn L bị khống chế lại, qua vận động thuyết phục, L đã tự giác nhặt 01 gói Heroine đang mở ra được đặt trên mặt đất phía trước mặt lên gói lại như cũ (gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng được gói xoắn lại một đầu) giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là gói Heroine do L mua hộ Tu để cùng Tu sử dụng, sau đó L tiếp tục lấy từ trong túi quần phía sau bên phải đang mặc 01 gói được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng gói đốt xoắn lại một đầu giao nộp cho tổ công tác cùng 100.000 đồng là tiền còn lại sau khi L đi mua Heorine cho Tu để cùng sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ số Heroin của L để điều tra làm rõ.

Các kết luận giám định khẳng định: 02 mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Giàng A L gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine. Có khối lượng là 0,4 gam.

Tại cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố.

Tại bản Cáo trạng số: 34/CT - VKS, ngày 18 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ để xét xử bị can Giàng A L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Giàng A L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Về điều luật: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A L từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,2 gam Heorine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ niêm phong cũ; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 100.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng). Trả lại cho bị cáo 01 xe máy BKS: 25P1 – 1074 màu đen xám, nhãn hiệu HONDAWave S, số khung: RLHJC4314AY165321, số máy: JC43E1420189 và 01 chìa khóa đi kèm theo xe; 01 chứng minh nhân dân mang tên Giàng A L; 01 giấy đăng ký moto, xe máy mang tên Sùng A Páo; 01 điện thoại di động nhãn hiệu CHILLI màu đen, viền màu trắng, đã qua sử dụng.

Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Bị cáo nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Hồi 12 giờ 00 phút ngày 22 tháng 01 năm 2020, tại khu vực phía đầu căn nhà xây bỏ hoang bản …, Bị cáo Giàng A L đã có hành vi tàng trữ 02 gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng (01 gói được gói đốt xoắn lại một đầu cất giấu trong túi quần phía sau bên phải đang mặc, 01 gói được gói xoắn lại một đầu được mở đặt dưới đất để chuẩn bị sử dụng). Nguồn gốc 02 gói Heorine thu giữ của L có tổng khối lượng 0,4 gam, do L mua với giá 500.000 đồng cho đối tượng tên Tu để sử dụng sư dụng cùng Tu, nhưng chưa được sử dụng đã bị phát hiện, thu giữ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước ta. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là loại Heroine được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự: Heroine …Có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam.

Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vậy Hội đồng xét xử kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên trong thời gian chấp hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án bị cáo đã vi phạm cam kết, quy định và có hành vi tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi của mình; Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo còn khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heorine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ niêm phong cũ; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 100.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng). Trả lại cho bị cáo 01 xe máy BKS: 25P1 – 1074 màu đen xám, nhãn hiệu HONDAWave S, số khung: RLHJC4314AY165321, số máy: JC43E1420189 và 01 chìa khóa đi kèm theo xe;

01 chứng minh nhân dân mang tên Giàng A Lùng; 01 giấy đăng ký moto, xe máy mang tên Sùng A Páo; 01 điện thoại di động nhãn hiệu CHILLI màu đen, viền màu trắng, đã qua sử dụng.

[6] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đạc biệt khó khăn nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[8] Về trách nhiệm của người có liên quan:

Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận mua Heroine của Vàng Thị Ch. Cơ quan điều tra đã xác minh và xác định hiện tại Vàng Thị Ch không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền không biết Ch đi đâu, làm gì. Ngoài lời khai của bị cáo không còn có tài liệu nào khác chứng minh, do vậy hiện tại chưa có đủ căn cứ để xử lý đối với Ch, Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục triệu tập, xác minh, điều tra làm rõ hành vi của Ch, khi có đủ căn cứ pháp luật sẽ tiến hành xử lý Ch theo quy định.

Đối với người đàn ông tên Tu, tên Lợi ngoài lời khai của bị cáo không còn có tài liệu khác chứng minh, do vậy không có đủ căn cứ để xác minh điều tra làm rõ đối với Lợi và Tu để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 106, 329, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Giàng A L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2/ Xử phạt bị cáo Giàng A L 02 (hai) năm tù. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22 tháng 01 năm 2020 đến ngày 31 tháng 01 năm 2020. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2020.

Tuyên bắt tạm giam bị cáo ngay tại phiên tòa để đảm bảo thi hành án.

3/ Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,2 gam Heorine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ niêm phong cũ; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 100.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng). Trả lại cho bị cáo 01 xe máy BKS: 25P1 – 1074 màu đen xám, nhãn hiệu HONDAWave S, số khung: RLHJC4314AY165321, số máy: JC43E1420189 và 01 chìa khóa đi kèm theo xe; 01 chứng minh nhân dân mang tên Giàng A Lùng; 01 giấy đăng ký moto, xe máy mang tên Sùng A Páo; 01 điện thoại di động nhãn hiệu CHILLI màu đen, viền màu trắng, đã qua sử dụng.

4/ Án phí sơ thẩm: Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;