Bản án 28/2019/HS-PT ngày 25/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 28/2019/HS-PT NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 28/2019/TLPT-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo Lê Trung C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2019/HS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Trung C, sinh năm: 1996 tại Quảng Nam; nơi cư trú: Tổ X, thôn Phước M 3, thị trấn Nam P, huyện Duy X, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trung M và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2018 đến nay. bị cáo đang giam, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 10/2018, Lê Trung C đến xã Bình Đ, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi thuê phòng trọ để tìm việc làm. Trong thời gian chờ xin việc, do không có tiền tiêu xài nên Lê Trung C nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, cụ thể C đã thực hiện 02 vụ trộm cắp sau:

Vụ 1: Tối ngày 26/10/2018 Lê Trung C đi bộ trên tuyến đường liên thôn Tân H 2, xã Bình Đ, huyện B thì phát hiện xe mô tô hiệu Honda Blade biển kiểm soát 76C1-324.06 của anh Lê Công L đang để trước quán nhậu 79 có để chìa khóa trên xe, nên Lê Trung C đến nổ máy xe rồi điều khiển xe bỏ trốn. Sau khi lấy trộm xe mô tô, Lê Trung C mang đến tiệm cầm đồ 579 của anh Huỳnh Tiến S cầm với số tiền 5.000.000 đồng.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện B định giá: Xe mô tô hiệu Honda Blade biển kiểm soát 76C1-324.06 trị giá 11.000.000 đồng.

Vụ 2: Vào ngày 02/11/2018 Lê Trung C đang đi dạo ở thôn Tân H 2, xã Bình Đ, huyện B thì phát hiện xe mô tô hiệu Future Fi biển kiểm soát 76C1-175.15 của anh Huỳnh Minh T đi làm về đang để trước sân nhà, có để chìa khóa trên xe. Lê Trung C đến dắt xe mô tô ra ngoài rồi nổ máy điều khiển xe ra Đà Nẵng gửi ở nhà một người bạn, sau đó tiếp tục đem gửi ở một quán cà phê. Sau khi trộm cắp xe mô tô, Lê Trung C mở cốp xe phát hiện bên trong có số tiền 2.800.000 đồng, nên đã lấy số tiền này tiêu xài.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện B định giá: Xe mô tô hiệu Future Fi biển kiểm soát 76C1-175.15 trị giá 18.000.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2019/HS-ST ngày 15/3/2019 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Trung C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Trung C 15 (mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/11/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 26/3/2019, bị cáo Lê Trung C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và có tình tiết mới ông ngoại là liệt sĩ, gia đình có công với nước. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 tháng tù là phù hợp, không nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 10/2019/HS-ST ngày 15/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo Lê Trung C, Hội đồng xét xử thấy rằng: Vì muốn có tiền tiêu xài, vào các ngày 26/10/2018 và 02/11/2018, tại thôn Tân H 2, xã Bình Đ, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi, lợi dụng lúc những người bị hại để xe mô tô có sẵn chìa khóa trên xe, không có người trông coi, bị cáo Lê Trung C đã lén lút đến nổ máy xe rồi điều khiển xe mô tô bỏ trốn. Với phương thức trên, bị cáo đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Blade biển kiểm soát 76C1-324.06 của anh Lê Công L, trị giá 11.000.000 đồng; trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Future Fi biển kiểm soát 76C1-175.15 của anh Huỳnh Minh T, trị giá 18.000.000 đồng, bên trong cốp xe có số tiền 2.800.000 đồng. Như vậy, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 31.800.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Trung C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Lê Trung C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cung cấp thêm tài liệu có ông ngoại là Liệt sĩ, gia đình có công với nước. Do đó, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo phạm tội hai lần, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên xử phạt bị cáo 15 tháng tù là phù hợp, không nặng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Bị cáo Lê Trung C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trung C. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 10/2019/HS-ST ngày 15/3/2019 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trung C 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ 09/11/2018.

2. Bị cáo Lê Trung C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2019/HS-PT ngày 25/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;