Bản án 28/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CỪ - TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 28/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2017/HSST ngày 08/11/2017 đối với:

Bị cáo Vũ Đình T, sinh năm 1989; sinh, trú quán: Thôn C, Thị trấn T, huyện P, tỉnh H; trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Vũ Văn C (đã chết) và con bà: Ngô Thị T, sinh năm 1965; vợ, con: Chưa; tiền án: ngày 20/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày15/7/2017); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14/7/2016, bị Công an huyện Phù

Cừ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản; tạm giữ: Không; tạm giam từ ngày 02/8/2017 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên; Bị cáo có mặt tại tòa.

Người bị hại:

+ Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1969; (vắng mặt) Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện P, tỉnh H;

+ Ông Trần Đức B, sinh năm 1945; (có mặt) Trú tại: Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh H;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quán:

Anh Trần Bùi M, sinh năm 1988; (vắng mặt) Trú tại: Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 31/7/2017, tại khu vực cầu Minh Tâm thuộc địa phận Thôn Đ, xã Đ, huyện P, tỉnh H; Tổ công tác của Công an huyện Phù Cừ tiến hành kiểm tra hành chính đối với một thanh niên có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra xác định được thanh niên trên là Trần Bùi M, sinh năm 1988 ở Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh H phát hiện M mang theo một bao dứa bên trong có 03 con gà (01 con gà trống và 02 con gà mái). M khai nhận số gà nêu trên do M vừa trộm cắp được của một nhà dân ở khu vực Trung tâm Y tế huyện Phù Cừ. Công an huyện đã thu giữ vật chứng là bao dứa bên trong có 03 con gà.

Quá trình điều tra xác định: Tối ngày 30/7/2017, Trần Bùi M gặp bị cáo Vũ Đình T, sinh năm 1989 ở thôn C, Thị trấn T, huyện P, tỉnh H ở khu vực ngã tư thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ và cùng nhau đi ăn. Sau đó M rủ trường đi xem có nhà nào có sơ hở thì vào trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu sài, T đồng ý và cùng M đi bộ dọc đường 38B để tìm nơi trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực Trung tâm Y tế huyện Phù Cừ, M và T phát hiện gia đình bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1969, ở thôn Đoàn Đào, xã Đoàn Đào, huyện Phù Cừ có chuồng gà. M bảo T ở ngoài cảnh giới còn M trèo qua tường đến chuồng gà nhà bà D, bắt được 03 con gà, loại gà ta (gồm 01 con gà trống và 02 con gà mái) và cho vào bao dứa ở gần chuồng gà. Sau khi M trộm cắp được gà thì bị bà D phát hiện và kêu to lên, T ở ngoài đã bỏ chạy về nhà còn M xách theo bao dứa đựng 03 con gà chạy ra ngoài. Khi M đi đến khu vực cầu Minh Tâm thì bị Tổ tuần tra Công an huyện Phù Cừ phát hiện, kiểm tra, lập biên bản và thu giữ vật chứng.

Kết luận định giá tài sản số 15/2017/KL-ĐG ngày 31/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù Cừ kết luận: 01 con gà trống loại gà ta, trọng lượng 2,4 kg trị giá 264.000 đồng; 02 con gà mái loại gà ta, tổng trọng lượng 04 kg, trị gái 360.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 624.000 đồng.

Trong quá trình điều tra còn xác định: Vào tối ngày 29/7/2017, Trần Bùi M gặp và rủ bị cáo T đi trộm cắp tài sản; T đồng ý và điều khiển xe đạp của M chở M ngồi sau đi từ thị trấn Trần Cao về xã Đình Cao. Khi đến khu vực Quán Bầu thuộc Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh H; M và T phát hiện thấy nhà ở khu vực chuyển đổi của ông Trần Đức B không khóa cửa. M bảo T đứng ở ngoài trông xe, cảnh giới còn M lẻn vào nhà ông B; M tìm thấy 01 điện thoại di động Nokia màu trắng đen để trên giường ngủ và số tiền 1.000.000 đồng trong túi áo để trên giường, M trộm cắp các tài sản trên và đi ra chỗ bị cáo T. M có nói với T là đã trộm cắp điện thoại và số tiền 1.000.000 đồng; sau đó T chở M về nhà. Sáng ngày 30/7/2017, M bán chiếc điện thoại đã trộm cắp cho một người không quen biết ở khu vực ngã tư Phố Cao được 50.000 đồng. Số tiền 1.000.000 đồng đã trộm cắp và tiền bán điện thoại, M và T cùng nhau chi tiêu hết.

Kết luận định giá tài sản số 18/2017/KL-ĐG ngày 04/8/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Phù Cừ kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen trắng đã qua sử dụng trị giá 200.000 đồng.

Quá trình bắt bị cáo T không thu giữ tài sản đồ vật gì liên quan đến vụ án. Trong quá trình điều tra, Trần Bùi M có biểu hiện của bệnh tâm thần nênCơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ đã ra Quyết định tách vụ án hình sự đốivới hành vi trộm cắp của Trần Bùi M.

Tại  Bản  kết  luận  giám  định  pháp  y  tâm  thần  số  378/KLGĐ  ngày01/11/2017 của Viện Pháp y tâm thần trung ương kết luận: Trần Bùi M bị chậm phát triển, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Vũ Đình T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 26/QĐ-VKS-HS ngày 06/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo Vũ Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt; bị cáo tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại ông Trần Đức B 1.200.000 đồng và không yêu cầu Trần Bùi M liên đới bồi thường.

Người bị hại Trần Đức B yêu cầu bị cáo bồi thường 1.200.000 đồng và đề nghị xử nghiêm về về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị:

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20; Điều 42; Điều 53 của Bộ luật Hình sự; Điều 357; 584, 585,587, 589 của Bộ luật Dân sự; Điều 28 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Đình T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ còn đề nghị về vấn đề trách nhiệm dân sự.

Bị cáo Vũ Đình T, người bị hại Trần Đức B nhất trí với quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ về tội danh cũng như về phần trách nhiệm dân sự, không có ý kiến tranh luận gì.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trong hai ngày 29 và 31/7/2017, bị cáo Vũ Đình T đã cùng Trần Bùi M thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ án thứ nhất: Vào đêm ngày 29/7/2017, Trần Bùi M đã rủ bị cáo Vũ Đình T đi trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực chuyển đổi của ông Trần Đức B ở Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh H, thấy nhà ông B không khóa cửa, M bảo bị cáo T ở bên ngoài cảnh giới còn M lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đã vào nhà trộm cắp 01 điện thoại di động Nokia đen trắng, trị giá 200.000 đồng và số tiền 1.000.000đồng.

Vụ án thứ hai: Vào đêm ngày 30/7/2017 và rạng sáng ngày 31/7/2017; Trần Bùi M và bị cáo Vũ Đình T đi trộm cắp tài sản của bà Nguyễn Thị D ở Thôn Đ, xã Đ, huyện P, tỉnh H. Bị cáo T ở ngoài canh gác còn M vào chuồng gà nhà bà D bắt trộm 03 con gà ta, trị giá 624.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản cả hai vụ trộm cắp là 1.824.000 đồng.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp khách quan với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai của những người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh M; các vật chứng và Kết luận định giá tài sản. Mặc dù tổng giá trị tài sản hai vụ trộm cắp đều dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo Vũ Đình T có tiền án về tội trộm cắp tài sản (Ngày 20/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ xử phạt 01 năm tù, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày15/7/2017) đến ngày phạm tội chưa được xóa án tích. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Vũ Đình T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sátnhân dân huyện Phù Cừ truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an ở địa phương; gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản, mỗi vụ đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo đã trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho người bị hại và gây thiệt hại không lớn, nên bị cáo được hưởng tình các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Về vai trò của bị cáo: Trong cả hai vụ án, bị cáo T đều tham gia thực hiện hành vi cảnh giới cho M trộm cắp, nên giữ vai trò là người giúp sức.

Về nhân thân: Ngày 14/7/2016, bị cáo bị Công an huyện Phù Cừ xử phạt hành chính (phạt tiền) về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản, đến nay bị cáo chưa nộp tiền phạt. Bị cáo có nhân thân xấu, mặc dù mới chấp hành xong hình phạt tùtrở về địa phương nhưng không tuân thủ pháp luật mà tiếp tục phạm tội, điều đó cho thấy bị cáo là người coi thường pháp luật và khó cải tạo.

Từ những phân tích nêu trên cần có mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết tiếp tục cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội và là người biết tuân thủ pháp luật như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản, vì vậy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Về vật chứng:

+ 03 con gà ta là tài sản hợp pháp của bà D, bà D đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ 01 chiếc xe đạp của Trần Bùi M đã dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản ngày 29/7/2017, M khai đã bán cho một người không rõ nhân thân, lai lịch; hành vi trộm cắp cùng Vũ Đình T của Trần Bùi M được tách ra giải quyết trong vụ án khác, tại phiên tòa Trần Bùi M vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét về chiếc xe đạp của M, nội dung này sẽ được giải quyết trong vụ án đối với Trần Bùi M.

- Về trách nhiệm dân sự:

Đối với chiếc điện thoại di động Nokia trắng đen, trị giá 200.000 đồng bị cáo đã bán và số tiền 1.000.000 đồng là tài sản hợp pháp của ông Trần Đức B, ông B yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại. Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền 1.200.000 đồng cho ông B và không yêu cầu M liên đới bồi thường, do đó cần chấp nhận sự tự nguyện này của bị cáo.

Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1Điều 48, Điều 42 và Điều 53 của Bộ luật Hình sự; các Điều 76, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự; Điều 23, Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Đình T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 02/8/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự tự nguyện của bị cáo Vũ Đình T, bồi thường toàn bộ số tiền 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) cho ông Trần Đức B, sinh năm 1945, trú tại Thôn C, xã T, huyện P, tỉnh H.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền bồi thường thiệt hại nếu người phải thi hành không thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí sơ thẩm hình sự và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có mặt được tính từ ngày tuyên án, người vắng mặt được tính từ ngày Tòa án tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cừ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;