Bản án 28/2017/HSST ngày 27/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂNHUYỆN KIM SƠN - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 28/2017/HSST NGÀY 27/06/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 06 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2017/HSST ngày 05/06/2017 đối với:

- Bị cáo: Họ và tên: Lê Văn T, sinh năm 1992; ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: xóm H, xã V, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa: 9/12;

Bố đẻ: Lê Văn T1, sinh năm 1966 và mẹ đẻ: Vũ Thị M, sinh năm 1967, đều làm ruộng và trú tại xóm H, xã V, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam ngày 20/4/2017 tại Trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1979, trú tại xóm H, xã V, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Có mặt tại phiên tòa

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn T2, sinh năm 1993, xóm 13, xã L, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Văn T bị VKSND huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 06 giờ 10 phút ngày 19/4/2017, Lê Văn T đi sang cửa hàng tạp hóa đối diện của chị Nguyễn Thị P để mua găng tay lao động nhìn thấy chiếc hộp nhựa đang để ở gầm bàn quầy bán hàng bên trong để nhiều loại thẻ cào điện thoại khác nhau, lợi dụng lúc chị P đi vào trong nhà để lấy găng tay bán cho T, T mở nắp rồi thò tay vào trong hộp lấy một số thẻ đang buộc bằng nịt cho vào túi quần bên phải, rồi nắp lại hộp nhựa bỏ lại vị trí cũ rồi trả tiền găng tay đi về nhà. Sau đó điều khiển xe mô tô BKS 35K1-11540 đi uống methadon tại trung tâm y tế huyện Kim Sơn khi về đến địa bàn xã T vào quán mua bán điện thoại của chị Trần Thị H để bán số thẻ cào trên nhưng chị H không mua. Cùng lúc đó T gặp Trần Văn T2 là bạn T rủ nhau vào quán nước cạnh cửa hàng điện thoại nhà chị H. T lấy ra 02 thẻ cào Viettel mệnh giá 50.000đ và 01 thẻ cào Vinaphone mệnh giá 50.000đ đưa cho T2 và nói là vừa nhặt được ở đường. Sau đó T còn gọi điện và nạp 02 thẻ Viettel mệnh giá 50.000đ cho một người tên K ở Bắc Ninh nhưng không xác định được địa chỉ cụ thể, rồi T lại tiếp tục gọi và nạp 01 thẻ Vinaphone mệnh giá 50.000đ cho một người tên K ở Hà Nội nhưng không xác định được địa chỉ cụ thể, đồng thời T tự cào 08 thẻ Viettel mệnh giá 50.000đ để nạp cho số thuê bao của mình; trên đường đi về nhà đến khu vực xóm 1, xã Y, huyện Kim Sơn thì gặp tổ tuần tra Công an huyện Kim Sơn, phát hiện nghi vấn nên tổ tuần tra tiến hành kiểm tra hành chính. T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ tại chỗ do T tự nguyện giao nộp 19 thẻ cào Viettel mệnh giá 100.000đ, 23 thẻ Viettel 50.000đ, 29 thẻ Vinaphone mệnh giá 50.000đ, 05 thẻ Mobiphone mệnh giá 50.000đ, 76 thẻ này là những thẻ còn nguyên giá trị thẻ nạp chưa bị cào mã số thẻ. Ngoài ra, còn thu 02 thẻ Viettel mệnh giá 50.000đ đã bị cào, 02 thẻ Vinaphone đã bị cào nhưng trong đó có 01 thẻ đã cào nhưng chưa nạp; 01 xe mô tô Honda Wave màu xanh đen BKS 35K1-115.40; 01 đăng ký xe mô tô số 001020 mang tên Lê Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F màu trắng hồng của Lê Văn T.

Chị Nguyễn Thị P tự nguyện giao nộp: 01 hóa đơn bán lẻ ngày 18/4/2017; 01 hộp nhựa hình trụ tròn màu trắng đục có nắp màu xanh đường kính nắp 11 cm, trong hộp có chứa: 46 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000đ, 09 thẻ cào Vinaphone mệnh giá 100.000đ, 30 chiếc thẻ cào Vinaphone mệnh giá 20.000đ, 09 thẻ cào Mobiphone mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ Mobiphone mệnh giá 50.000đ, 13 thẻ cào Vnmobile mệnh giá 20.000đ, 02 thẻ cào Gmobile mệnh giá 20.000đ, tất cả số thẻ trên còn nguyên lớp phủ mạ chì mã số.

Ngoài 80 thẻ nạp thu giữ nói trên qua xác minh còn có 11 thẻ (10 thẻ Viettel 50.000đ và 01 thẻ Vinaphone 50.000đ) T đã nạp và cho người khác không thu được thẻ đã cào. Tổng số 91 thẻ nạp điện thoại mà Lê Văn T chiếm đoạt thành tiền là 5.500.000đ.

Bản cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 04/6/2017 của VKSND huyện Kim Sơn truy tố bị cáo Lê Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, 2 điều 46 và Điều 47 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 03 đến 04 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2017.

- Căn cứ quy định của pháp luật xử lý vật chứng

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Văn T khai: Khoảng hơn 6 giờ ngày 19/4/2017, Lê Văn T đi từ nhà sang cửa hàng tạp hóa đối diện của chị Nguyễn Thị P để mua găng tay lao động. Lợi dụng lúc chị P đi vào trong nhà để lấy găng tay bán cho Tỉnh, Tỉnh mở nắp hộp đựng thẻ lấy một số thẻ điện thoại của chị P đang buộc bằng nịt cho vào túi quần, sau đó trên đường đi uống methadon tại trung tâm y tế huyện Kim Sơn về, Tỉnh mang thẻ trộm cắp được đến địa bàn xã T vào quán mua bán điện thoại của chị Trần Thị H để bán số thẻ cào trên, nhưng chị H không mua thì T gặp Trần Văn T2 là bạn, T lấy ra 02 thẻ cào Viettel mệnh giá 50.000đ và 01 thẻ cào Vinaphone mệnh giá 50.000đ đưa cho T2 và nói là vừa nhặt được ở đường. Sau đó T còn gọi điện và nạp 02 thẻ Viettel mệnh giá 50.000đ cho một người tên K; nạp 01 thẻ Vinaphone mệnh giá 50.000đ cho một người tên K là bạn nhưng không biết địa chỉ cụ thể của hai người này, đồng thời T tự cào 08 thẻ Viettel mệnh giá 50.000đ để nạp cho số thuê bao của mình. Trên đường đi về nhà đến khu vực xóm 1, xã Y, huyện Kim Sơn thì gặp tổ tuần tra Công an huyện Kim Sơn tiến hành kiểm tra hành chính. T đã tự nguyện giao nộp 80 thẻ điện thoại các loại còn lại và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đồng thời được chứng minh qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như đơn trình báo của người bị hại, biên bản sự việc, biên bản thu giữ vật chứng, biên bản khám nghiệm và sơ đồ hiện trường.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Lợi dụng lúc chị P người có tài sản sơ hở bị cáo Lê Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp 91 chiếc thẻ nạp điện thoại, tổng trị giá tài sản 5.500.000đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; theo khoản 1 Điều 138 BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật.

Khi lượng hình HĐXX thấy: bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú nhận về hành vi trộm cắp với cơ quan điều tra; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo và gia đình đã khắc phục phần thiệt hại xảy ra; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o, h, p khoản 1, 2 điều 46 BLHS; bị cáo đủ điều kiện áp dụng thêm Điều 47 BLHS để xử dưới khung hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cũng như nhân thân bị cáo cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đủ để giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh cũng như răn đe phòng ngừa chung.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản trộm cắp là 91 thẻ điện thoại các loại trong đó còn 76 thẻ còn nguyên giá trị là 4.750.000đ và có thể lưu hành bình thường. Còn lại 01 thẻ Vinaphone trị giá 50.000đ đã bị cào nhưng chưa nạp không còn giá trị lưu hành và 14 thẻ (Viettel và Vinaphone) đã bị cào và nạp trị giá 700.000đ, gia đình bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Văn T2 đã bồi thường cho người bị hại theo phần bị cáo 600.000đ và anh T2 150.000đ; người bị hại chỉ có yêu cầu nhận lại tài sản là số thẻ còn giá trị để bán, yêu cầu này có căn cứ được HĐXX chấp nhận.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ 80 thẻ nạp điện thoại các loại; 01 điện thoại di động OPPO màu trắng hồng; 01 mô tô BKS 35K1-11540 và 01 đăng ký xe mang tên Lê Văn T. Chị Nguyễn Thị P tự nguyện giao nộp: 01 hóa đơn bán lẻ ngày 18/4/2017; 01 hộp nhựa hình trụ tròn màu trắng đục có nắp màu xanh đường kính nắp 11cm, trong hộp có chứa 110 thẻ nạp các loại gồm 46 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000đ, 09 thẻ cào Vinaphone mệnh giá 100.000đ, 30 chiếc thẻ cào Vinaphone mệnh giá 20.000đ, 09 thẻ cào Mobiphone mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ Mobiphone mệnh giá 50.000đ, 13 thẻ cào Vnmobile mệnh giá 20.000đ, 02 thẻ cào Gmobile mệnh giá 20.000đ, tất cả số thẻ trên còn nguyên lớp phủ mạ chì mã số. Tổng trị giá 2.770.000đ

Đối với 110 thẻ nạp các loại thẻ trị giá 2.770.000đ và hóa đơn bán lẻ ngày 18/4/2017 chị P nộp không liên quan đến vụ án cần hoàn trả cho chủ sở hữu.

Đối với 80 thẻ nạp các loại thu của bị cáo T do trộm cắp của chị P mà có, trong đó 76 thẻ còn nguyên giá trị là 4.750.000đ và có thể lưu hành bình thường cần trả lại cho chủ sở hữu là chị P; còn lại 01 thẻ Vinaphone trị giá 50.000đ đã bị cào nhưng chưa nạp không còn giá trị lưu hành và 3 thẻ (02 Viettel và 01 Vinaphone) đã bị cào và nạp tổng trị giá 200.000đ cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động OPPO màu trắng hồng; 01 mô tô BKS 35K1- 11540 và 01 đăng ký xe mang tên Lê Văn T không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Áp dụng khoản 1, Điều 138; điểm o, h, p khoản 1,2 Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự

- Xử phạt bị cáo Lê Văn T 04 (bốn) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2017.

2/. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2, điều 76  Bộ Luật tố tụng hình sự và áp dụng khoản 1, 2 điều 41 BLHS

- Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ Vinaphone trị giá 50.000đ đã bị cào nhưng chưa nạp, 02 thẻ Viettel và 01 Vinaphone không còn giá trị lưu hành.

- Trả lại cho người bị hại P 186 thẻ nạp điện thoại các loại; 01 hộp nhựa hình trụ tròn màu trắng đục có nắp màu xanh đường kính nắp 11cm; 01 hóa đơn bán lẻ ngày 18/4/2017.

Trả lại cho bị cáo T 01 điện thoại di động OPPO màu trắng hồng; 01 mô tô BKS 35K1-11540 và 01 đăng ký xe mang tên Lê Văn T (Chi tiết vật chứng như trong biên bản bàn giao giữa cơ quan điều tra và Chi cục THADS huyện Kim Sơn ngày 04/06/2017).

2/. Án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 về án phí, lệ phí tòa án buộc bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2017/HSST ngày 27/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;