Bản án 28/2017/DS-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 28/2017/DS-ST NGÀY 21/08/2017 TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 18 và 21 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, xét xử sơ thẩm C khai vụ án dân sự thụ lý số: 03/2017/TLST-DS, ngày 23 tháng 01 năm 2017 về việc “Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2017/QĐXXST-DS, ngày 13 tháng 7 năm 2017; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Mỹ Nh, sinh năm 1969 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

2. Bị đơn: Bà Lê Thị Kh, sinh năm 1939 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị Kh: Ông Ngô Đức B - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cà Mau (có mặt).

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 1957 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/01/2017, cùng các văn bản kèm theo và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Nguyễn Mỹ Nh trình bày:

Cha bà (Nguyễn Mỹ Nh) là ông Nguyễn Hữu Th và mẹ là Lê Thị Kh có 01 phần đất diện tích 37.800m2  tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau và 01 ngôi nhà bán cơ bản. Phần đất được Ủy ban nhân dân huyện Cái Nước (nay là huyện Phú Tân) cấp quyền sử dụng đất số 10531, ngày 10/01/1995. Ngày 30/7/2009, cha mẹ bà có làm di chúc cho bà toàn bộ số tài sản của cha mẹ. Di chúc được Ủy ban nhân dân xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau chứng thực. Ông Th chết ngày 09/02/2013, phần đất hiện nay do anh trai là ông Nguyễn Quốc V và mẹ là bà Kh quản lý, cánh tác. Bà Kh thì đồng ý giao toàn bộ tài sản cho bà theo di chúc nhưng ông V không đồng ý giao đất. Phần nhà, đất và những loại tài sản trong nhà là tài sản chung của cha mẹ bà, theo di chúc cho toàn bộ cho bà. Hiện nay, bà Kh vẫn còn sống nên phần thừa kế của bà Kh chưa được mở thừa kế. Vì vậy, di sản của ông Th là ½ trong di chúc, còn lại ½ là của bà Kh. Bà yêu cầu giao ½ phần di sản là đất với diện tích là 18.900m2, ½ tài sản còn lại là nhà và vật dụng trong nhà bà thống nhất để cho bà Kh quản lý, sử dụng, định đoạt. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị Kh và ông Nguyễn Quốc V giao cho bà phần đất với diện tích là 18.900 m2 và chia theo chiều xẽ dọc từ tiền đến hậu đất. Ngày 24/5/2017, giữa bà và bà Kh thống nhất thỏa thuận vị trí, ranh giới, diện tích bà Kh giao cho bà là 12.258,2m2. Ngày 27/7/2017, trong quá trình làm việc tại Tòa án giữa bà và bà Kh có thống nhất thỏa thuận ½ di sản theo di chúc là phần đất có diện tích 18.900m2, ½ tài sản (nhà và vật dụng trong nhà). Bà yêu cầu bà Kh giao cho bà phần đất có diện tích 12.258,2m2, phần diện tích đất còn lại là 6.641,8m2 và ½ di sản căn nhà theo phần của ông Th bà thống nhất cho lại cho bà Kh toàn quyền sử dụng, định đoạt.

Tại biên bản hòa giải ngày 22/ 02/2017 và tại phiên tòa bà Lê Thị Kh trình bày:

Bà và chồng là ông Nguyễn Hữu Th có phần đất nuôi trồng thủy sản diện tích 37.800m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, phần đất do ông Th đứng tên quyền sử dụng đất. Ngày 30/7/2009, bà và ông Th có lập di chúc được Ủy ban nhân dân xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau chứng thực. Nội dung di chúc là bà và ông Th sau khi chết sẽ giao toàn bộ tài sản gồm nhà và đất cho con gái là bà Nguyễn Mỹ Nh. Lý do bà để lại toàn bộ phần đất và tài sản cho bà Nh là do trước đây bà có cho con trai là ông Nguyễn Quốc V phần đất với diện tích khoảng 40 C, do ông V không lo làm ăn nên bà và ông Th sợ phần đất này giao cho ông V sẽ không quản lý được. Ngày 09/02/2013 ông Th chết, bà đồng ý giao lại ½ diện tích phần đất cho bà Nh toàn quyền quản lý sử dụng, còn ½ diện tích phần đất còn lại bà sẽ giữ lại canh tác, sử dụng. Ngày 27 tháng 7 năm 2017 bà có làm V bản sửa đổi di chúc là bà thống nhất giao ½ di sản do ông Th chết để lại giao cho bà Nh, còn ½ di sản còn lại bà giữ lại và tự bà định đoạt.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị Kh: Ông Ngô Đức B đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Mỹ Nh, buộc bà Lê Thị Kh và ông Nguyễn Quốc V giao cho bà Nh phần đất theo di chúc được các bên đã thỏa thuận diện tích là 12.258,2m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Tại biên bản hòa giải 22/02/2017, ông Nguyễn Quốc V trình bày: Phần đất đang tranh chấp là của cha mẹ ông là ông Nguyễn Hữu Th và bà Lê Thị Kh, cha ông là ông Nguyễn Hữu Th đứng tên quyền sử dụng đất. Hiện nay ông và mẹ ông đang quản lý, sử dụng, do ông là người trực tiếp nuôi bà Kh. Nay theo yêu cầu của bà Nh yêu cầu ông giao ½ diện tích đất thừa kế theo di chúc là ông không đồng ý với lý do: Ông là con trai nuôi cha mẹ tại sao không cho ông đất, hơn nữa tại buổi hòa giải tại xã mẹ ông (bà Kh) có hứa cho ông ½ diện tích đất. Khi nào mẹ ông chuyển tên ½ diện tích phần đất cho ông thì ông thống nhất giao phần đất cho bà Nh.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ tranh chấp, việc thụ lý cũng như trong quá trình giải quyết vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận diễn ra đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Mỹ Nh, buộc bà Lê Thị Kh và ông Nguyễn Quốc V giao cho bà Nh phần đất theo di chúc được các bên đã thỏa thuận diện tích là 12.258,2m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa ông Nguyễn Quốc V vắng mặt. Căn cứ vào các tài liệu đã chứng minh ông Nguyễn Quốc V đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Quốc V là có căn cứ.

[2]. Về quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn Mỹ Nh yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc đối với di chúc của bà Lê Thị Kh và ông Nguyễn Hữu Th được lập vào ngày 30/7/2009 (được chứng thực vào ngày 31/8/2009) là thực tế xảy ra. Xét về nguồn gốc phần đất tranh chấp thừa kế giữa bà Nh và bà Kh là của ông Th và bà Kh có diện tích 37.800 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 10531, các thửa 0026, 0027, 0028 và 0030, tờ bản đồ số 04 được Ủy ban nhân dân huyện Cái Nước (nay là huyện Phú Tân), tỉnh Cà Mau cấp ngày 10/01/1995. Năm 2013 ông Nguyễn Hữu Th chết. Bà Nh yêu cầu C nhận một phần tài sản trong di chúc do ông Th để lại. Vì vậy, tranh chấp được xác định là tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đồng thời áp dụng Điều 643 của Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án là có căn cứ.

[3]. Xét về phạm vi và nội dung khởi kiện, tại đơn khởi kiện ngày 09/01/2017, bà Nguyễn Mỹ Nh khởi kiện bà Lê Thị Kh và ông Nguyễn Quốc V yêu cầu giao cho bà phần đất diện tích 18.900 m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Ngày 24/5/2017, quá trình xem xét thẩm định tại chỗ giữa bà Nh và bà Kh thống nhất thỏa thuận là bà Kh giao cho bà Nh vị trí, ranh giới, diện tích đất cụ thể là 12.258,2m2.

[4]. Xét về nội dung tranh chấp, nguồn gốc đất là của ông Nguyễn Hữu Th và bà Lê Thị Kh, phần đất có diện tích 37.800m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau do ông Th đứng tên quyền sử dụng đất. Ông Th và bà Kh có hai người con chung tên Nguyễn Quốc V và Nguyễn Mỹ Nh. Năm 2009, ông Th và bà Kh lập di chúc được Ủy ban nhân dân xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau chứng thực. Nội dung di chúc ông Th và bà Kh giao lại tất cả các tài sản cho bà Nh là con gái của ông Th và bà Kh toàn quyền sử dụng và định đoạt. Ngày 27/7/2017, bà Kh có V bản sửa đổi một phần di chúc chung của vợ chồng là bà Kh giữ lại 50% phần tài của bà còn 50% di sản ông Th chết để lại, bà Kh thống nhất giao lại cho bà Nh quản lý, sử dụng, định đoạt theo di nguyện của ông Th, trong đó có phần đất tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Theo biên bản thỏa thuận giữa bà Kh và bà Nh đã xác định cụ thể vị trí, ranh giới và diện tích bà Kh giao cho bà Nh có vị trí tứ cận như sau: Phía Đông giáp với đất của ông Nguyễn Hữu Th có cạnh dài 124,76m; Phía Tây giáp với đất của ông Tô Minh Đ có cạnh dài 62m; Phía Nam giáp phần đất ông Nguyễn Chí C có cạnh dài 83m; Phía Bắc giáp lộ V - Cái Nước có cạnh dài 140m. Phần đất các bên thỏa thuận giao cho bà Nh có tổng diện tích là 12.258,2m2. Tài sản ông Th chết để lại gồm có căn nhà và đồ dùng trang trí trong nhà bà Nh thống nhất giao lại cho bà Kh toàn quyền sử dụng, định đoạt. Bà Kh đã đồng ý giao ½ tài sản theo di chúc là ½ diện tích đất và ½ tài sản trên đất (căn nhà và vật dụng sinh hoạt gia đình). Tuy nhiên, các bên thống nhất thỏa thuận tài sản giao lại cho bà Nh thấp hơn di sản mà ông Th chết để lại do phần thừa diện tích đất còn lại và các tài sản khác bà Nh đồng ý cho lại bà Kh, bà Kh thống nhất nhận. Cho thấy sự thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định pháp luật nên có cơ sở để chấp nhận. Ông Nguyễn Quốc V xác định phần đất tranh chấp là của cha mẹ ông là ông Nguyễn Hữu Th và bà Lê Thị Kh, cha ông đứng tên quyền sử dụng đất. Cha ông chết năm 2013, hiện nay phần đất ông và mẹ ông đang quản lý, sử dụng, ông là người trực tiếp nuôi bà Kh. Bà Nh yêu cầu ông giao ½ diện tích đất thừa kế theo di chúc là ông không đồng ý, ông đưa ra lý do ông là con trai nuôi cha mẹ tại sao không cho đất ông, hơn nữa tại buổi hòa giải tại xã mẹ ông (bà Kh) có hứa cho ông ½ diện tích đất. Khi nào mẹ ông chuyển tên ½ diện tích phần đất cho ông thì ông thống nhất giao phần đất cho bà Nh. Xét thấy, phần đất là do ông Nguyễn Hữu Th đứng tên quyền sử dụng đất và là tài sản chung của ông Th và bà Kh. Lúc ông Th còn sống, tinh thần minh mẫn giữa ông và bà Kh thể hiện ý chí của mình là giao toàn bộ tài sản cho bà Nh được Ủy ban nhân dân xã chứng thực, di chúc là hợp pháp nên ông V không có quyền yêu cầu phân chia di sản do ông Th chết để lại.

Từ những căn cứ và nhận định nêu trên, có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nh và bà Kh là bà Kh giao phần đất có diện tích 12.258,2m2  tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau cho bà Nguyễn Mỹ Nh theo di chúc ngày 30/7/2009 của ông Nguyễn Hữu Th để lại. Phần diện tích đất còn lại theo ½ di chúc của ông Th là 6.641,8m2  và ½ tài sản còn lại bà Nh từ chối nhận, thống nhất giao lại bà Kh nên không đặt ra xem xét. Do bà Kh là vợ ông Th nên bà Kh là người được `hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, tuy nhiên bà Kh đã từ chối nhận di sản nên không đặt ra xem xét.

[5]. Từ những căn cứ và nhận định nêu trên xét thấy quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Kh là có căn cứ chấp nhận. Đồng thời, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nh là có căn cứ.

[6]. Các bên thống nhất thỏa thuận giá trị đất là 20.000đồng/m2.

[7]. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, bà Nguyễn Mỹ Nh phải nộp theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 640, Điều 643 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 188 của Luật đất đai; các điều 26, 35, 39 và 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Mỹ Nh về việc yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc.

Bà Lê Thị Kh giao cho bà Nguyễn Mỹ Nh phần đất có tổng diện tích là 12.258,2m2 tọa lạc ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau theo di chúc. Theo thỏa thuận giữa bà Kh và bà Nh thì vị trí, ranh giới và diện tích bà Kh giao cho bà Nh có vị trí tứ cận như sau:

Phía Đông giáp với đất của ông Nguyễn Hữu Th có cạnh dài 124,76m;

Phía Tây giáp với đ`ất của ông Tô Minh Đ có cạnh dài 62m;

Phía Nam một phần giáp phần đất ông Nguyễn Chí C có cạnh dài 83m, một phần giáp ông Nguyễn Hữu Th có cạnh dài 48m;

Phía Bắc giáp lộ V - Cái Nước có cạnh dài 140m.

(Có kèm theo sơ họa vị trí phần đất các đương sự thống nhất giao).

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc bà Nguyễn Mỹ Nh phải chịu án phí là 12.258.200 đồng (mười hai triệu hai trăm năm mươi tám nghìn hai trăm đồng). Bà Nguyễn Mỹ Nh đã nộp tiền tạm ứng là 9.450.000 đồng (chín triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006365, ngày 23/01/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân. Nay chuyển thu, đối trừ bà Nh phải nộp thêm số tiền là 2.808.200 đồng (hai triệu tám trăm lẻ tám nghìn hai trăm đồng), nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án. Ông Nguyễn Quốc V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

662
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2017/DS-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất

Số hiệu:28/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;