Bản án 278/2021/HS-PT ngày 10/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 278/2021/HS-PT NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU, CON DẤU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Trong ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 40/2021/HSPT-TL ngày21tháng01năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn K và các bị cáo khác do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kháng cso của bị cáo Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Văn K đối với bản án hình sự sơ thẩm số 23/2020/HS-ST ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

-Bị cáo bị kháng nghị:

1. Nguyễn Văn K, sinh năm 1976 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: mua bán; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1956 và bà Đinh Thị B, sinh năm 1956 (đã chết); vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1976; con: có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án: không; tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 29/11/2019 cho đến nay; có mặt.

2. Huỳnh Văn C (Mười), sinh năm 1987 tại tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm hồ; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1949; vợ: Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1987; con: có 02 người con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013; tiền án: không, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 29/11/2019 cho đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Minh Đ (Tám Minh), sinh năm 1963 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: tài xế; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị H (đã chết); tiền án: không, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

4. Nguyễn Văn H, sinh năm 1966 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Phan Thị L (đã chết); vợ: Hà Kim P, sinh năm 1974; con: có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án: không, tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 29/11/2019 cho đến nay; có mặt.

5. Nguyễn Văn K, sinh năm 1962 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K1 (đã chết) và bà Võ Thị G (đã chết); vợ: Trần Thị D, sinh năm 1960; con: có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án: không; tiền sự: không; về nhân thân: ngày 07/4/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xử phạt 02 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 38/2010/HSPT, chấp hành xong Bản án ngày 07/3/2011; ngày 08/7/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xử phạt 04 năm tù về “Tội tổ chức đánh bạc” tại Bản án số: 77/2013/HSPT, chấp hành xong Bản án ngày 31/8/2015; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Người bào chữa:

1. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K: Luật sư Đoàn Huy Hoàng thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

2. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Minh Đ: Luật sư Lương Văn Thuận thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

3. Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn C: Luật sư Hoàng Công Sơn thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

4. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn K: Luật sư Trần Thị Cẩm Tú thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre, có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Lê Công T, sinh năm 1968; nơi cư trú: Phường 2, Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

2. Bà Võ Thị Thanh H, sinh năm 1971; nơi cư trú: Phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1967; nơi cư trú: huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre; có mặt.

2. Ông Lê Sanh Hồng T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Phường 5, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1976; nơi cư trú: Phường 7, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Ái N, sinh năm 1981; nơi cư trú: xã Sơn Đông, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Hải Đ, sinh năm 1995; nơi cư trú: xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; có mặt.

4. Ông Phan Văn M, sinh năm 1977; nơi cư trú: Phường 7, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 02/2019, Nguyễn Văn K gặp Huỳnh Văn C tại quán cà phê Xuân Mai ở Phường 6, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, C nói cho K biết có thể làm giấy tờ giả đem lừa người khác lấy tiền được, sau đó C cho K số điện thoại nói khi nào cần thì điện cho C. Do K làm nghề môi giới mua bán đất nên có giấy photo tên Nguyễn Minh Đ1, sinh năm 1969, là chủ thửa đất số 465, tờ bản đồ số 25, diện tích là 3.577,1 m2 ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Knảy sinh ý định làm giả giấy này để lừa lấy tiền tiêu xài. Khoảng đầu tháng 3/2019, K rủ Nguyễn Minh Đ làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đem lừa lấy tiền tiêu xài thì Đ đồng ý và được K phân công tìm người môi giới. Thông qua Nguyễn Thị N là người môi giới, Đ biết Phan Văn M, sinh năm 1977, ở Phường 7, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre có nhu cầu cho vay tiền thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên nói cho K biết. K điện thoại kêu C làm giả 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 sổ hộ khẩu và giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cùng mang tên Nguyễn Minh Đ1. K thỏa thuận với C nếu làm giấy tờ giả lừa lấy tiền được thì trả C số tiền 50.000.000đồng, nếu không được thì trả C số tiền 15.000.000 đồng, C đồng ý, kêu K cung cấp ảnh và chứng minh nhân dân của người đóng giả Nguyễn Minh Đ1. Sau đó, K rủ Nguyễn Văn K đóng giả người tên Nguyễn Minh Đ1, đưa ảnh và giấy chứng minh nhân dân để làm giả đi lừa người khác lấy tiền, nếu lấy được số tiền 1.000.000.000 đồng thì K cho K 100.000.000 đồng, K đồng ý. K đưa cho C bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Nguyễn Minh Đ1, ảnh của K để C làm giả giấy tờ này.Khoảng 02 ngày sau, C giao bộ giấy tờ giả cho K tại quán cà phê Hoa Sứ ở Ấp 1, xã Sơn Đông, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre và nhận số tiền 15.000.000đồng.

K kêu Đ tìm người để lừa vay số tiền 1.000.000.000 đồng, sau đó Đ điện thoạithỏa thuận với N nhờ tìm người cho vay tiền. Ngày 26/4/2019, K đóng giả chủ đất tên Nguyễn Minh Đ1 cùng Đ hẹn gặp N tại quán cà phê Hoa Sứ, sau khi N xem bộ giấy tờ giả do K đưa, N giới thiệu K với Phan Văn M và được Minh đồng ý cho vay số tiền 1.000.000.000 đồng, với điều kiện phải ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Minh đứng tên, tất cả đồng ý và hẹn buổi chiều đến Văn phòng công chứng Tín Hữu ở ấp An Thuận A, xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre để làm hợp đồng công chứng. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, N cùng Phan Văn M đến Văn phòng công chứng Tín Hữu nhưng không gặp K, Đ và K vì lúc này K đã bỏ về huyện Thạnh Phú nên N điện thoại cho Đ, sau đó Đ kêu Nguyễn Hải Đ1 (là con của Nguyễn Văn K) đem hồ sơ đất giả đến đưa cho N để làm hợp đồng công chứng trước. Văn phòng công chứng Tín Hữu kêu N đến Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre chứng thực sao y bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Nguyễn Minh Đ1 thì phát hiện là giấy giả nên lập biên bản tạm giữ và trình báo Công an.

Khong đầu tháng 5/2019, K tiếp tục nảy sinh ý định đem giấy tờ giả lừa người khác lấy tiền tiêu xài. K biết Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1967, ở ấp Phước Tân, xã Tam Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre quen với Lê Công T, sinh năm 1968, ở Số 126, đường Cô Giang, Phường 2, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh có cho vay tiền thế chấp bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, K nói với Hằng có người tên Nguyễn Minh Đ1 muốn vay số tiền 1.000.000.000 đồng thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó kêu Đ đem bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Đ1 đưa cho Hằng xem. Hằng điện thoại cho Thiện nói có Nguyễn Minh Đ1 cần thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền thì Thiện đồng ý cho vay số tiền 600.000.000 đồng, lãi suất là 05%/tháng, trong 03 tháng đến 06 tháng thì trả lại đủ số tiền vay. Hằng nói lại cho K biết về số tiền và lãi suất vay; tháng đầu tiên trả 10%, gồm 05% là tiền lãi trả cho Thiện, 05% còn lại là tiền công giới thiệu của Hằng, K đồng ý. Để Thiện tin tưởng đưa tiền, K rủ Nguyễn Văn H đóng giả Nguyễn Minh Đ1 và hứa chia cho H số tiền 20.000.000 đồng khi lấy được tiền, H đồng ý. K kêu H chụp ảnh và đưa giấy chứng minh nhân dân, sau đó K kêu C làm giả 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 01 giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Minh Đ1 do H đóng giả, sau khi làm xong C đưa cho K bộ giấy tờ đất giả như yêu cầu và nhận số tiền 7.000.000 đồng.

Ngày 09/5/2019, K, H cùng với Hằng và Thiện đến Văn phòng công chứng Lê Hùng Dũng thuộc ấp An Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre làm hợp đồng vay tiền thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 465, tờ bản đồ số 25, diện tích là 3.577,1 m2 của Nguyễn Minh Đ1. Khi Lê Sanh Hồng Tuấn (là nhân viên Văn phòng công chứng Lê Hùng Dũng) làm thủ tục công chứng xong, H giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả cùng hồ sơ chuyển nhượng cho Thiện và nhận số tiền 600.000.000 đồng. Do K đã căn dặn trước đó nên H đưa lại cho Hằng số tiền 60.000.000 đồng, gồm 30.000.000 đồng tiền lãi tháng đầu tiên của Thiện và 30.000.000 đồng tiền công giới thiệu của Hằng, đưa cho K số tiền 10.000.000 đồng; Kđưa cho Tuấn số tiền 3.000.000 đồng, gồm trả phí công chứng 1.200.000 đồng và cho Tuấn 1.800.000 đồng tiền công. Hằng đưa lại cho Thiện số tiền 30.000.000 đồng, Hằng chia cho Đ số tiền 15.000.000 đồng như thỏa thuận và cất giữ 15.000.000 đồng. Sau khi rời khỏi Văn phòng công chứng, H đưa cho K số tiền còn lại là 530.000.000 đồng, K chia cho H số tiền 20.000.000đồng, chia cho C số tiền 10.000.000 đồng, số còn lại K cất giữ tiêu xài cá nhân hết. Ngày 21/5/2019, Thiện đến Chi nhánh Văn phòng Đ1 ký đất đai huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của K đưa là giả nên tố giác hành vi phạm tội của K cùng các đồng phạm.

Trong khi Cơ quan điều tra xác minh thu thập chứng cứ, tháng 6/2019 K kêu C làm giả 01 giấy chứng nhận Đ1 ký xe ô tô biển số 71A-023.63 mang tên của K, C đồng ý làm giả với giá 2.000.000 đồng. Khoảng 01 tuần sau thì C giao giấy chứng nhận Đ1 ký xe ô tô giả mang tên của K và nhận số tiền 2.000.000 đồng. Xe ô tô biển số 71A-023.63 K mua của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khách sạn vận chuyển Quang Vinh, do anh Nguyễn Ái Nghĩa là cổ đông của Công ty đại diện bán với số tiền 380.000.000 đồng. Do xe đang thế chấp tại Ngân hàng nên 02 bên thỏa thuận K chỉ trả số tiền 180.000.000 đồng và có nghĩa vụ hàng tháng phải nộp Ngân hàng số tiền 7.500.000 đồng, đến khi hết nợ thì làm thủ tục Đ1 ký sang tên. Nghĩa giao xe ô tô, giấy chứng nhận kiểm định và bản photo giấy Đ1 ký xe ô tô cho K. Do cần tiền tiêu xài nên ngày 16/9/2019, K đem xe ô tô biển số 71A-023.63 cùng giấy Đ1 ký giả mang tên của K đến gặp Võ Thị Thanh H ở Số 21B, đường Hai Bà Trưng, Phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Trelừa vay thế chấp số tiền 200.000.000 đồng, lãi suất 10%/tháng, thời gian trả từ ngày 16/9/2019 đến ngày 16/11/2019, sau khi nhận tiền K đưa Hương số tiền 20.000.000đồng đóng lãi tháng đầu tiên, còn lại tiêu xài hết. Đến ngày 10/10/2019, K tiếp tục thỏa thuận vay của Hương số tiền 100.000.000 đồng, K trả Hương số tiền 60.000.000 đồng,gồm: trả lãi 20.000.000 đồng, trả tiền mượn nợ trước đây 40.000.000 đồng, còn lại 40.000.000 đồng tiêu xài hết, sau đó K mượn lại xe ô tô biển số 71A-023.63 để làm phương tiện đi lại. Do K không đóng tiền Ngân hàng như thỏa thuận nên anh Nghĩa gặp K trả lại số tiền 140.000.000 đồng, lấy lại xe ô tô và bản photo giấy Đ1 ký xe. Biết được sự việc nên Hương đến Công an tố giác hành vi phạm tội của K.

Ngoài ra, trong khoảng tháng 3/2019, Đ có nhận của nhiều người có nhu cầu làm giấy phép lái xe giả (không nhớ họ, tên) số tiền 6.000.000 đồng, sau đó Đ kêu C làm giả 05 giấy phép lái xe, trong đó có 03 giấy phép lái xe Hạng A1, 01 giấy phép lái xe hạng A2 và 01 giấy phép lái xe hạng B2. Đ đưa tiền, hình ảnh và thông tin của người có nhu cầu làm giả cho C. C đã làm được 04 giấy giả, còn một giấy loại A1 chưa làm xong thì bị bắt.Số tiền Đ thu lợi bất chính là 2.500.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

* Thu giữ của Nguyễn Văn K:

- 01 (môt) Giấy bán xe ngày 31/9/2019 tên Nguyễn Văn K.

- 01 (một) Hợp đồng đặt cọc quyền sử dụng đất, bên bán tên Phạm Văn Tươi (gọi tắt là bên A), bên mua tên Nguyễn Văn K (gọi tắt là bên B).

- 01 (một) bản photo trích lục bản đồ địa chính thửa đất số 127, tờ bản đồ số 17, xã Thuận Điền, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre (thu khi khám xét khẩn cấp).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen, số IMEI 1: 357345080924457, IMEI 2: 357325085522456, cùng 02 sim điện thoại 0913599096 và 0963356319, mật khẩu “12345”, được niêm phong.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu vàng đen, mặt lưng có số seri: S/N: R58KB2F6DAR; số IMEI 1: 352987104128428, IMEI 2: 352988104128426, cùng 02 sim điện thoại 0799670527 và 0944654038, được niêm phong.

* Thu giữ của Huỳnh Văn C: 01 (một) túi giấy màu trắng, phía ngoài túi có chữ “Kodak, 14/2 Trần Quốc Tuấn, P.4, TP.Bến Tre”. Bên trong túi giấy trên có các đồ vật, tài liệu sau:

- 01 (một) bản phô tô giấy chứng minh nhân số 321385596, họ tên Phạm Công Nam, sinh ngày 07/06/1990, Đ1 ký thường trú: Số 602C, Khu phố 1, phường Phú Khương, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, cấp ngày 12/08/2015.

- 02 (hai) ảnh giống nhau kích thước 04 x 06cm.

- 04 (bốn) ảnh giống nhau kích thước 03 x 04cm.

- 01 (một) giấy phép lái xe số 791185013469, tên Trần N Linh, sinh ngày 27/04/198, Quốc tịch: Việt Nam, nơi cư trú: Số 93/2B, Ấp 4, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, cấp ngày 15/3/2018, Hạng A1, chất liệu PET (thu giữ khi khám xét khẩn cấp).

- 01 (một) điện thoại hiệu Samsung màu đen, đã qua sử dụng, trầy xướt nhiều nơi, không kiểm tra tình trạng hoạt động của máy và bên trong máy, được niêm phong (bị cáo tự giao nộp).

* Thu giữ của Nguyễn Văn H:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen cùng sim số 0327934669 và 0832037089, số seri 1: 354893081195349, số seri 2: 354893081195356, được niêm phong.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen cùng sim số 0845466698, được niêm phong.

* Thu giữ của Nguyễn Minh Đ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel màu đen cùng 02 sim số 0949495090 và 0773177990, được niêm phong.

* Thu giữ của Nguyễn Văn K: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, mặt lưng có chữ “OPPO CE07000” cùng sim số 0918100279, được niêm phong.

* 01 (một) Giấy chứng nhận Đ1 ký xe ô tô số 0035145 mang tên Nguyễn Văn K cấp ngày 28/12/2015, do Võ Thị Thanh H giao nộp.

* 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A2, số 860185206273 cấp cho Phạm Công Nam đề ngày 15/3/2018, do Phạm Công Nam giao nộp.

* Chi nhánh Văn phòng Đ1 ký đất đai huyện Châu Thành giao nộp:

- 02 (hai) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, cấp cho người có thông tin như sau: ông Nguyễn Minh Đ1, sinh năm 1969, chứng minh nhân dân số: 020013056, nơi thường trú: ấp Mỹ Hòa 1, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, số BU089781, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH06469, 01 giấy có ép nhựa và một giấy không ép nhựa.

- 01 (một) hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bản photo) gồm 04 trang giấy A4.

- 01 (một) bộ hồ sơ sao lục số 349/SL-CNVPĐKĐĐ ngày 03/05/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đ1 ký đất đai huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, gồm 20 trang giấy A4 do ông Huỳnh Văn Công, phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đ1 ký đất huyện Châu Thành ký.

- 01 (một) tờ photo biên nhận tiền ghi ngày 09/5/2019.

- 01 (một) bản chính báo cáo số 224/BC-CNCT ngày 21/5/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đ1 ký đất đai huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, báo cáo về việc có dấu hiệu làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 465, tờ bản đồ số 25, tại xã Tam Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- 01 (một) bản photo biên bản trao đổi một số nội dung liên quan đến việc giấy chứng nhận thửa đất số 465, tờ bản đồ số 25, tại xã Tam Phước của Chi nhánh văn phòng Đ1 ký đất đai huyện Châu Thành ngày 26/4/2019.

Tại Bản kết luận giám định số 157/2019/GĐTL ngày 03/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

- Phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và hình dấu tròn đóng dưới mục “TM.Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành. Chủ tịch” cùng mang tên Nguyễn Minh Đ1 (ký hiệu Al, A2) nêu tại mục II.1 là phôi giấy và hình dấu giả bằng phương pháp in phun màu.

- Chữ ký mang tên Trần Văn Thọ dưới mục “TM.Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành. Chủ tịch” trên 02 (hai) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, cùng mang tên Nguyễn Minh Đ1 (ký hiệu Al, A2) nêu tại mục II.1 so với chữ ký mẫu của Trần Văn Thọ trên tài liệu mẫu (ký hiệu M1 đến M4) nêu tại mục II.2 không phải do cùng một người ký ra.

Tại Bản kết luận giám định số 39/2019/GĐĐV ngày 14/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

- Dấu vân tay dưới mục “Bên A” Nguyễn Minh Đ1, ký hiệu A1 trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với 02 dấu vân tay trên tờ khai chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh Đ1, sinh ngày 08/12/1969, số 020013056, ký hiệu M1 (sao y tài liệu lưu trữ tại Phòng PC06 Công an Thành phố Hồ Chí Minh, số 108 ngày 08/7/2019) là không phải của cùng một người để lại.

- Dấu vân tay dưới mục “Bên B” Lê Công T, ký hiệu A2 trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với điểm chỉ ngón “Trỏ phải” trên Phiếu thu nhận thông tin căn cước công dân mang tên Lê Công T, sinh ngày 29/11/1968, số CMND/CCCD 079068001066, ký hiệu M2 (sao y tài liệu lưu trữ tại Phòng PC06 Công an Thành phố Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh, ngày 13/8/2019) là của cùng một người để lại.

- Dấu vân tay dưới mục “Bên A” Nguyễn Minh Đ1 ký hiệu A1 và dưới mục “Bên B” Lê Công T, ký hiệu A2 trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải của cùng một người để lại.

Tại Bản kết luận giám định số 55/2019/GĐĐV ngày 01/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Dấu vân tay dưới mục “Bên A” Nguyễn Minh Đ1 trên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giữa bên chuyển nhượng (Bên A) ông Nguyễn Minh Đ1, bên nhận chuyển nhượng (Bên B) ông Lê Công T, công chứng ngày 09/5/2019 với điểm chỉ ngón “Trỏ phải” trên chỉ bản mang tên Nguyễn Văn H, sinh ngày 15/10/1966, Đ1 ký thường trú: ấp Thạnh Thới A, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, là vân tay của cùng một người.

Tại Bản kết luận giám định số 05/2020/GĐTL ngày 21/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

- 01 Giấy phép lái xe số 791185013469, đề cấp ngày 15/03/2018 mang tên Trần N Linh, sinh ngày 27/04/198, nơi cư trú: số 93/2B ấp 4, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh là giấy phép lái xe giả.

- 01 Giấy phép lái xe số 860185206273, đề cấp ngày 15/03/2018 mang tên Phạm Công Nam, sinh ngày 07/06/1990, nơi cư trú: số 602C Khu phố 1, phường Phú Khương thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, là giấy phép lái xe giả.

- 01 Chứng nhận Đ1 ký xe ô tô số 003514, đề cấp ngày 28 tháng 12 năm 2015, biển số Đ1 ký 71A-023.63, mang tên Nguyễn Văn K, địa chỉ: số 66/2 Thạnh Thới Đông, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre là chứng nhận Đ1 ký xe ô tô giả.

Như vậy, trong khoảng thời gian từ tháng 2/2019 đến tháng 9/2019, K đã 03 lần kêu C làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và giấy Đ1 ký xe ô tô, sau đó cùng với Đ, H, K sử dụng những giấy tờ giả này lừa Phan Văn M, Lê Công T và Võ Thị Thanh H chiếm đoạt tổng số tiền 800.000.000 đồng, gồm chiếm đoạt của Thiện số tiền 600.000.000 đồng, chiếm đoạt của Hương số tiền 200.000.000 đồng; C và Đ 02 lần tham gia cùng với K sử dụng giấy tờ giả lừa chiếm đoạt của Thiện số tiền 600.000.000 đồng; H 01 lần cùng với K và Đ sử dụng giấy tờ giả lừa chiếm đoạt của Thiện số tiền 600.000.000 đồng; K 01 lần cùng với K và Đ sử dụng giấy tờ giả lừa chiếm đoạt của Minh số tiền 1.000.000.000 đồng nhưng chưa chiếm đoạt được do bị phát hiện; riêng C là người đã làm 12 loại giấy tờ giả để K, Đ, H, K thực hiện hành vi phạm tội (gồm 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 02 giấy chứng minh nhân dân, 01 sổ hộ khẩu, 01 giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, 01 giấy Đ1 ký xe ô tô và 05 giấy phép lái xe; Cơ quan điều tra chỉ thu giữ được 05 loại giấy tờ giả gồm: 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 giấy Đ1 ký xe ô tô và 02 giấy phép lái xe hạng A2), thu lợi số tiền 36.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, các bị cáo thật thà khai nhận hành vi phạm tội phù hợp lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Đ tự nguyện giao nộp số tiền 4.000.000 đồng; bị cáo H tác động gia đình giao nộp số tiền 20.000.000 đồng; bị cáo C tác động vợ là Nguyễn Thị Thanh Thúygiao nộp số tiền 32.000.000 đồng; Lê Sanh Hồng Tuấn giao nộp số tiền 3.000.000 đồng; các vật chứng còn lại tiếp tục tạm giữ bảo đảm quá trình xét xử và thi hành án. Riêng bị hại Lê Công T từ chối không yêu cầu K bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 600.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 23/2020/HSST ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn K phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 12 (mười hai) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 02 (hai) năm tù về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 03 (ba) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt cả 03 tội, buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải chấp hành hình phạt C là 17 (mười bảy) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2019.

Tuyên bố bị cáo: Huỳnh Văn C (Mười) phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn C 03 (ba) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

- Áp dụng điểm b, c, đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn C 03 (ba) năm tù về “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt cả 02 tội, buộc bị cáo Huỳnh Văn C phải chấp hành hình phạt C là 06 (sáu) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2019.

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Minh Đ phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ 04 (bốn) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ 03 (ba) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt cả 02 tội, buộc bị cáo Nguyễn Minh Đ phải chấp hành hình phạt C là 07 (bảy) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn H phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 04 (bốn) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 (hai) năm tù về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt cả 02 tội, buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chấp hành hình phạt C là 06 (sáu) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2019.

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn K phạm “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 02 (hai) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 13/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có kháng nghị số 11, đề nghị hủy bản án sơ thẩm nêu trên. Lý do: Bỏ lọt tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội đối với hành vi CD(TS của ông Phan Văn M xảy ra ngày 26/4/2019. Lọt hành vi phạm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức của bị cáo Nguyễn Minh Đ, nguyễn Văn Hậu trong việc sử dụng giấy tờ giả chiếm đoạt của ông Lê Công T 600 triệu đồng. Truy tố và xét xử đối với Huỳnh Văn C với tình tiết định khung thu lợi bất chính 10 triệu đồng trở lên là không đúng.

Ngày 23/12/2020, bị cáo Nguyễn Minh Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù; cùng ngày, bị cáo Nguyễn Văn K kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao giữ nguyên kháng nghị, bị cáo Đ và K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Tất cả các bị cáo đều thừa nhận tội danh và hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Giữ nguyên nội dung kháng nghị số 11 ngày 13/01/2021. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Do đề nghị hủy án sơ thẩm nên không xem xét kháng cáo của các bị cáo Đ và K.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo K trình bày:

Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là không có cơ sở nên đềnghị Hội đồng xét xử bác bỏ và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo C trình bày:

Thng nhất kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao về việc không áp dụng tình tiết thu lợi bất chính từ 10 triệu đồng trở lên.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ và Hậu trình bày:

Án sơ thẩm xét xử là đúng pháp luật. Bị cáo Đ và H có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thành khẩn, bị cáo Đ có bệnh tiểu đường, bị cáo Hậu có gia đình có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, xem xét giảm nhẹ cho bị cáo Đ.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo K trình bày:

Bị cáo K sử dụng giấy tờ giả đii làm thủ tục vay tiền theo sự chỉ đạo của bị cáo K với mục đích cần tiền trị bệnh cho vợ. Căn cứ Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo K có đủ điều kiện hưởng án treo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hình thức kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và đơn kháng cáo của bị cáo Đ và K làm trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi, tội danh và nội dung kháng nghị, kháng cáo. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:

[2.1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng được thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập, có cơ sở xác định:trong khoảng thời gian từ tháng 02/2019 đến tháng 9/2019, Nguyễn Văn K đã thuê Huỳnh Văn C 03 lần làm giả giấy tờ của cơ quan Nhà nước, sau đó cùng với Nguyễn Minh Đ, Nguyễn Văn H và NguyễnVăn K sử dụng các loại giấy tờ giả này lừa đảo người khác chiếm đoạt tiền. Sau khi có được giấy tờ giả, ngày 26/4/2019, tại Văn phòng công chứng Tín Hữu thuộc ấp An Thuận A, xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, K cùng với Đ và K sử dụng giấy tờ giả lừa anh Phan Văn M để chiếm đoạt số tiền 1.000.000.000 đồng nhưng chưa chiếm đoạt được thì bị phát hiện; đến ngày 09/5/2019, tại Văn phòng công chứng Lê Hùng Dũng thuộc ấp An Hòa, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, K tiếp tục cùng với Đ và H sử dụng giấy tờ giả lừa ông Lê Công T chiếm đoạt số tiền 600.000.000 đồng; đến ngày 16/9/2019, tại Khu phố 3, Phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, K sử dụng giấy Đ1 ký xe ô tô giả lừa bà Võ Thị Thanh H chiếm đoạt số tiền 200.000.000 đồng. Như vậy: K chiếm đoạt số tiền 800.000.000 đồng; Đ và H đồng phạm với K chiếm đoạt số tiền 600.000.000 đồng, Đ hưởng lợi số tiền 15.000.000 đồng, H hưởng lợi 20.000.000 đồng; K sử dụng giấy tờ giả nhưng chưa chiếm đoạt được tiền; C đồng phạm với K chiếm đoạt số tiền 600.000.000 đồng, đã làm giả 05 loại giấy tờ (gồm 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 giấy Đ1 ký xe ô tô, 01 giấy pháp lái xe hạng A1, 01 giấy pháp lái xe hạng A2), thu lợi số tiền 36.000.000 đồng.

Với ý thức, hành vi và hậu quả xảy ra, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã xét xử đối với bị cáo: Nguyễn Văn K về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự và“Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự; Huỳnh Văn C về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và “Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b, c, đ khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự; Nguyễn Minh Đ về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự; Nguyễn Văn H về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự; Nguyễn Văn K về “Tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và kháng cáo của các bị cáo, nhận thấy như sau:

Bị cáo K đã thuê C làm giấy tờ giả gồm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Nguyễn Minh Đ1, giấy CMND, hộ khẩu, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đứng tên Nguyễn Minh Đ1. C đồng ý theo đề nghị của K và thỏa thuận với K nếu chiếm đoạt được tiền của ông Phan Văn M thì C được K trả 50 triệu đồng nếu không chiếm đoạt được tiền của ông Phan Văn M thì K trả 15 triệu đồng. Các bị cáo Đ và K tham gia với vay trò tìm người môi giới và người cho vay tiền (Đ) và đóng giả ông Phan Văn M (K). Mục đích là chiếm đoạt của ông Minh 1 tỷ đồng, các bị cáo đã thực hiện xong các bước, đã thực hiện công chứng xong và chỉ khi Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre chứng thực sao y bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên Nguyễn Minh Đ1 thì phát hiện là giấy giả nên lập biên bản tạm giữ và trình báo Công an. Như vậy các bị cáo này phạm tội “lừa đảo CĐTS” đã hoàn thành nhưng chưa đạt, do vậy kháng nghị của VKS về vấn đề này là có căn cứ pháp luật.

Đối với hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Lê Công T: H có hành vi đóng giả ông Đ1, Đ photocopy giấy tờ giả giao cho người môi giới tên Hằng, hưởng lợi 15 triệu đồng. Do vậy, xác định Đ và H đồng phạm với K về tội “Sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức” như kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là có căn cứ.

Nhng vấn đề sai sót nêu trên không thể bổ xung tại phên tòa phúc thẩm được nên cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra, truy tố và xét xử lại. Do hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra vấn đề có liên quan đến tội phạm và hành vi phạm tội của bị cáo Đ và K nên Hội đồng xét xử chưa xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của 2 bị cáo này.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 355; Điểm a, b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy bản án sơ thẩm số 23/2020/HS-ST ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre để điều tra lại.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Nguyễn Văn K, Huỳnh Văn C và Nguyễn Văn H cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre thụ lý lại vụ án.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 278/2021/HS-PT ngày 10/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:278/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;