TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H - TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 274/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 12 năm 2017 tại Hội trường xét xử số 1 trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 249/2017/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Bị cáo: Nguyễn Quyết T, tên gọi khác: (không);
Sinh ngày 08/6/1972 tại tỉnh Quảng Ninh;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 28 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Không;
Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không;
Họ và tên bố: Nguyễn Văn L, đã chết;
Họ và tên mẹ: Hoàng Thị Đ, sinh năm 1934;
Họ và tên vợ: Hoàng Thị P1 T1, sinh năm 1974;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt quả tang ngày 16/9/2017, hiện tạm giam, có mặt tại phiên tòa;
2. Bị cáo: Hồ Tuấn N, tên gọi khác: (không);
Sinh ngày 10/10/1973 tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh;
Nơi ĐKHKTT: Tổ 4 Khu 9, phường H1, tp. H, Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ 26 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Không;
Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không;
Họ và tên bố: Hồ Xuân T1, đã chết;
Họ và tên mẹ: Phạm Thị V, sinh năm 1946;
Họ và tên vợ: Phạm Hải T3, sinh năm 1982, đã ly hôn;
Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2011;
Tiền án: Ngày 30/9/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 06 tháng tù vềtội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 16/5/2016 chấp hành xong hình phạt tù về địa P1; Tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giam ngày 08/10/2017, hiện tạm giam, có mặt tại phiên tòa;
Người bị hại:
- ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Tổ 26 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Có mặt tại phiên tòa;
Người có quyền lợi, N vụ liên quan:
- Bà Đào Thị M1, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Tổ 28 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa;
- Bà Đỗ Thị B1, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Tổ 28 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa;
- Anh Lê Trần P1, sinh năm 1999;
Địa chỉ: Tổ 30 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa;
- Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Tổ 25 Khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa;
- Anh Nguyễn Hoài D1, sinh năm 1990;
Địa chỉ: Tổ 69 Khu 8, phường C, tp. H, Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa;
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Hồ Tuấn N bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vụ thứ nhất: Hồ Tuấn N và Nguyễn Quyết T là bạn cùng xóm chơi với nhau. Do gà nhà ông Nguyễn Văn L (là hàng xóm với N) ở Tổ 26 Khu 3, phường C, thành phố H hay sang nhà N phá hoại rau, nên N nảy sinh ý định trộm cắp gà. Khoảng 22 giờ ngày 13/7/2017, N trèo qua tường sang nhà ông L và đi về phía chuồng gà, mở cửa chuồng bắt 07 (bảy) con gà con. Sau đó mang về cho vào thùng bìa cát tông để ở sân nhà N, do gà kêu nên N đập chết một con. Sáng ngày 14/7/2017, T sang nhà N chơi nhìn thấy có một con gà chết và thùng đựng 06 (sáu) con gà con. N nói là cho T mang về nuôi, T bê thùng gà về. Trên đường bê về, N đi cùng, T nói không có thời gian nuôi, nên để tìm người bán. Khi T và N về đến nhà T gặp chị Đào Thị M1. N hỏi và bán 06 (sáu) con gà con với giá 180.000 đồng cho chị M1. Sau khi bán gà, N sang nhà T mượn đồ nghề về sửa mái tôn tại nhà và rủ T sang phụ giúp. Khoảng 10 giờ 10 phút cùng ngày, N nảy sinh ý định sang nhà ông L trộm cắp tiếp chiếc máy phát điện và xeđạp mini để lấy tiền ăn tiêu. N nói với T về việc trộm cắp, T nói không bán được bao nhiêu tiền. N bảo T đứng trên sân nhà N, khi cần kéo đồ cho N. N trèo qua tường sang nhà ông L rồi đi về phía sau bếp thấy cửa bếp mở, N đi vào bê chiếc máy phát điện nhãn hiệu Yamaha ra gần bờ kè, rồi đẩy máy lên bờ kè và gọi T để kéo máy lên sân nhà N. N quay lại nhà bếp lấy tiếp chiếc xe đạp mini màu mận chín mang ra bờ kè, gọi T kéo xe lên sân nhà N. Sau đó, T đi về nhà mượn xe mô tô chở N mang máy phát điện đi bán. Khi đến đầu ngõ 9, phường C, thành phố H, N vào gặp anh Lê Tuấn P1 làngười trông hộ cửa hàng Tuyên Hường và bán chiếc máy phát điện cho anh P1 với giá700.000 đồng. N cầm tiền và cùng T quay về nhà lấy chiếc xe đạp mini mang ra ngõ 5phường C để bán. T đứng ngoài đợi, N dắt xe vào quán thu mua sắt vụn bán cho bàNguyễn Thị L1 với giá 56.000 đồng. Đến chiều ngày 15/7/2017, N đã chia cho T280.000 đồng. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông Nguyễn Văn L đã trình báo công an.
Cơ quan điều tra thu giữ một máy phát điện màu vàng nhãn hiệu Yamaha và một xe đạp mini màu mận chín do anh Lê Tuấn P1 và bà Nguyễn Thị L1 giao nộp. Còn ông Nguyễn Văn L đã lấy lại được 06 (sáu) con gà con do bà Đỗ Thị B1 là người nuôi gà hộ chị M1 trả.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 116 ngày 03/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H, kết luận: một con gà tre lông màu xám, cânnặng 02 (hai) lạng có trị giá là 35.000 đồng; 06 (sáu) con gà ta lông màu trắng, cân nặng mỗi con 02 (hai) lạng có tổng trị gái là 180.000 đồng; một máy phát điện nhãnhiệu Yamaha có trị giá 2.400.000 đồng; một chiếc xe đạp mini Nhật màu mận chín có trị giá là 450.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại máy phát điện và chiếc xe đạp trên cho ông Nguyễn Văn L.
Vụ thứ hai: Khoảng 20 giờ ngày 16/9/2017, Nguyễn Quyết T đi đến khu vực chợNúi Xẻ thuộc Tổ 56 Khu 6, phường C, thành phố H gặp và mua của một người thanh niên không quen biết một gói ma túy với giá 100.000 đồng, rồi cất vào túi quần bêntrái, mục đích để sử dụng. Trong khi đi tìm chỗ để sử dụng thì T bị Công an phường Cphát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ: một gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng ở túi quần bên trái của T.
Theo Bản kết luận giám định số 581/GĐMT ngày 19/9/2017 của Phòng kỹ thuậthình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng có trong một gói giấyghi thu của Nguyễn Quyết T gửi giám định có trọng lượng 0,21g là heroine.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Nguyễn Quyết T và Hồ Tuấn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Ngoài ra, T còn khai: chiếc mô tô T chở N đi bán tài sản trộm cắp là mượn của cháu ruột là Nguyễn Hoài D1, nhưng không nhớ biển kiểm soát và khi mượn nói là đi có việc; T không biết số gà con do N trộm cắp mà có. N còn khai: N cho T mang gà về nuôi, nhưng T nói không nuôi, nên N mới bán cho chị M1.
Bản cáo trạng số 262/KSĐT-HS ngày 23/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Nguyễn Quyết T về tội Trộm cắp tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999; Hồ Tuấn N về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194, khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 50 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 41/QH14 ngày20/6/2017 của Quốc hội áp dụng theo hướng có lợi cho người phạm tội; khoản 3 Điều7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, tuyên bố Nguyễn Quyết Tphạm tội Trộm cắp tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt Nguyễn Quyết T từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, từ 18 (mười tám) đến 24 (hai bốn) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Quyết T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là từ 24 (hai bốn) đến 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (16/9/2017); đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1Điều 48 Bộ luật hình sự, tuyên bố Hồ Tuấn N phạm tội Trộm cắp tài sản; xử phạt HồTuấn N từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (08/10/2017); căn cứ điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng của vụ án; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Tại lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Quyết T và bị cáo Hồ Tuấn N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
XÉT THẤY
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:
Bị cáo Hồ Tuấn N và bị cáo Nguyễn Quyết T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố về hành vi phạm tội như sau: Do không có công ăn việc làm, cần có tiền ăn tiêu và đàn gà nhà ông Nguyễn Văn L là hàng xóm hay sang vườn nhà phá vườn rau, vào khoảng 22 giờ ngày 13/7/2017, N trèo qua tường sang nhà ông L, mở cửa chuồng gà bắt 07 (bảy) con gà con, đập chết một con gà vào sáng hôm sau rồi mang đi bán số gà còn lại (sáu con) cho chị Đào Thị M1 được 180.000 đồng. Sau đó, vào hồi 10 giờ 10 phút sáng ngày 14/7/2017, N tiếp tục rủ T vào nhà ông L lấy trộm tài sản; cụ thể: N bảo T đứng trên sân nhà N, khi cần thì kéo đồ trộm cắp được của nhà ông L cho N; N trèo qua tường sang nhà ông L rồi bê chiếc máy phát điện nhãn hiệu Yamaha ra gần bờ kè, rồi đẩy máy lên bờ kè và gọi T kéo máy lên sân nhà N; tiếp theo đó, N quay lại nhà bếp lấy tiếp chiếc xe đạp mini màu mận chín mang ra bờ kè, gọi T kéo xe lên sân nhà N. Sau khi bán được số tài sản Đến chiều ngày 15/7/2017, N chia cho T 280.000 đồng là tiền do bán được tài sản (chiếc máy phát điện và xe đạp mini) mà có. Tổng giá trị tài sản là: 3.065.000 đồng.
Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Quyết T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng 20 giờ ngày 16/9/2017, Nguyễn Quyết Ttàng trữ ma túy trong người mục đích để sử dụng thì bị Công an phường C bắt quả tang, vật chứng thu giữ: một gói giấy bên trong chưa chất bột màu trắng ở túi quần bên trái của T.
Người bị hại ông Nguyễn Văn L cũng có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo, thể hiện: Khoảng 18 giờ ngày 14/7/2017, ông phát hiện ông bị mất một chiếc phát điện nhãn hiệu Yamaha đã cũ và một chiếc xe đạp mini màu mận chín đã cũ; tiếp tục kiểm tra chuồng gà thì thấy mất 07 (bảy) con gà con, trong đó có 06 (sáu) con gà ta và một con gà tre. Sau đó ông thấy bà B1 đang nuôi số gà giống với số gà của ông đã mất, ông hỏi bà B1 thì được bà B1 trả lời là nuôi hộ bà M1. Sau đó vài hôm, N đã đến nhà ông để xin lỗi vì đã trộm cắp số tài sản trên của ông. Ông đã nhận lại số gà cùng chiếc máy phát điện và xe đạp và không yêu cầu bồi thường. Ngoài ra, ông L còn khai: ngày 11/7/2017, gia đình ông bị mất một con chó xám nặng khoảng 18 Kg và ngày 13/7/2017 mất 02 (hai) con gà mái ta cân nặng 3,5Kg.
Người có quyền lợi, N vụ liên quan bà Đào Thị M1 có lời khai: Vào khoảng 10 giờ sáng ngày 14/7/2017, bà gặp T đi cùng một thanh niên cao khoảng 1,7m (sau nàybà mới biết là N), T và N gạ bán cho bà 06 (sáu) con gà con với giá 200.000 đồng. Bàđồng ý mua số gà trên với giá 180.000 đồng và đưa tiền cho N. Do chưa chuẩn bị kịp lồng để nhốt gà nên bà gửi số gà trên cho bà Đỗ Thị B1 là hàng xóm nuôi hộ. Sau đó, ông L là chủ sở hữu bị mất đã lấy lại số gà trên. Do bà đã được gia đình bị cáo Hồ Tuấn N bồi thường đủ số tiền 180.000đ nên bà không có yêu cầu gì về phần bồithường thiệt hại.
Người có quyền lợi, N vụ liên quan bà Đỗ Thị B1 có lời khai: vào khoảng 10 giờ30 phút ngày 14/7/2017, bà đi qua nhà bà M1 thì thấy N đang bán cho bà M1 06 (sáu)con gà con. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, bà M1 bê thùng bìa cát tông đựngsố gà con trên đến nhà bà nhờ bà nuôi hộ vì bà M1 chưa chuẩn bị lồng gà để nhốt. Sau khi biết số gà trên là của ông L bị mất trộm, bà đã trả lại số gà trên cho ông L.
Người có quyền lợi, N vụ liên quan anh Lê Tuấn P1 có lời khai: vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/7/2017, khi anh đang trông cửa hàng (cửa hàng điện máy Tuyên Hường) hộ anh Nguyễn Văn Tuyên thì có một nam thanh niên cao khoảng 1,7m, dángngười to (sau này anh mới biết là Hồ Tuấn N) đến hỏi anh có mua máy phát điện hay không. Anh trả lời có. Sau đó N đi ra ngoài, một lúc sau N cùng một nam thanh niên khác dáng người gầy, cao khoảng 1,66m (sau này anh mới biết người đó là NguyễnQuyết T) mang một máy phát điện nhãn hiệu Yamaha, màu vàng, đã cũ. Anh P1 trả giá chiếc máy phát 700.000 đồng, N đồng ý, anh P1 đưa tiền cho N và T. Anh không biết đây là tài sản trộm cắp mà có. Anh có yêu cầu hai bị cáo phải bồi thường cho anhsố tiền 700.000 đồng.
Người có quyền lợi, N vụ liên quan bà Nguyễn Thị L1 có lời khai: vào khoảng13 giờ ngày 14/7/2017, bà đang ở nhà thu mua sắt vụn thì có một nam thanh niên đến nhà (sau này bà mới biết là Hồ Tuấn N) bán một chiếc xe đạp mini màu mận chín đã cũ và han rỉ. Bà đồng ý mua xe đạp trên với giá 56.000 đồng. Bà không biết tài sản trên là tài sản do trộm cắp mà có. Do bà đã được gia đình bị cáo Hồ Tuấn N bồithường đủ số tiền 56.000đ nên bà không có yêu cầu gì về phần bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi, N vụ liên quan anh Nguyễn Hoài D1 có lời khai: sáng ngày14/7/2017, anh về nhà bà nội tại khu vực Tổ 28 khu 3, phường C, tp. H, Quảng Ninh chơi. Đến khoảng 11 giờ hơn, thì bị cáo T là chú ruột anh D1 mượn xe máy nói là đicó việc, anh đồng ý và cũng không hỏi lý do tại sao. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì bị cáo T trả lại xe cho anh. Chiếc xe của anh là chiếc xe có nhãn hiệu Honda AirBlade, do lúc đó mới mua nên anh chưa kịp đăng ký biển số. Sau này, gia đình có việc cần tiền nên anh đã bán chiếc xe trên cho một người thanh niên không quen biết; hiện anh không rõ chiếc xe đó ở đâu.
Xét thấy, lời khai nhận tội của Nguyễn Quyết T và Hồ Tuấn N cơ bản rõ ràng,phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi N vụ liên quan và người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ đã đủ cơ sở xác định:
Vào đêm ngày 13/7/2017, Hồ Tuấn N đã vào nhà ông Nguyễn Văn L lấy trộm 7 (bảy) con gà, đến sáng ngày 14/7/2017, do gà kêu sợ bị phát hiện, N đã đập chết một con gà; rồi mang bán số gà còn lại cho bà Đào Thị M1 lấy 180.000 đồng. Việc N trộmcắp gà của ông L và bán cho bà M1, T không tham gia trộm cắp và cũng không giúp sức cho N bán gà. Sáng ngày 14/7/2017, N rủ Nguyễn Quyết T vào nhà ông L tiếp tụctrộm cắp tài sản, N phân công T đứng ở phía trên kè nhà N để giúp N bê tài sản trộm cắp được từ nhà ông L về nhà N. Bằng thủ đoạn này, N và T đã trộm được của nhà ông L một chiếc máy phát điện Yamaha màu vàng đã cũ, một chiếc xe đạp mini màu mận chín đã cũ. Tổng giá trị tài sản là 3.065.000 đồng. N chia cho T 280.000 đồng. Số tiền trộm cắp được, N và T sử dụng cho nhu cầu hàng ngày của bản thân.
Vào 20 giờ 00 phút ngày 16/9/2017, Nguyễn Quyết T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong người mục đích để sử dụng thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang. Theo bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: chất bột màu trắng có trong gói giấy ghi thu của Nguyễn Quyết T gửi giám định có trọng lượng là 0,21g là heroine.
Hành vi trộm cắp của bị cáo Hồ Tuấn N và bị cáo Nguyễn Quyết T đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Trong vụ án trộm cắp tài sản, bị cáo Hồ Tuấn N giữ vai trò chính, là người chủ động rủ rê bị cáo Nguyễn Quyết T cùng phạm tội, mang tính chất đồng phạm. Bị cáo T vai trò thứ hai, tuy không trực tiếp trộm cắp tài sản nhưng đã giúp sức cho bị cáo N thực hiện hành vi phạm tội.
Ngoài ra, hành vi tàng trữ chất ma túy mục đích để sử dụng của bị cáo NguyễnQuyết T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1Điều 194 Bộ luật hình sự.
Điều 194 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Hành vi trộm cắp của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa P1; hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Nguyễn Quyết T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất trật tự, trị an – xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ N Việt Nam.
Xét về nhân thân: Bị cáo N đã có một tiền án về tội Trộm cắp tài sản, lần phạmtội này là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều48 Bộ luật hình sự. Bị cáo N khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo N được hưởng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo T chưa có tiền án, tiền sự, khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo T được hưởng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 41/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội áp dụng theo hướng có lợi chongười phạm tội; khoản 3 Điều 7.; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo song cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo các bị cáo thành người có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo N và bị cáo T phải liên đới bồi thường cho anh LêTuấn P1 số tiền 700.000 đồng (chia theo phần: bị cáo N 350.000 đồng, bị cáo T350.000 đồng). Bà Nguyễn Thị L1 và bà Đào Thị M1 đã nhận được tiền bồi thườngnên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Về vật chứng: Số gà cùng chiếc máy phát điện Yamaha đã cũ và chiếc xe đạp mini mầu mận chín đã cũ; cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Văn L, nên HĐXX không đề cập xử lý. Chiếc xe mô tô của anh Nguyễn Hoài D1 cho bị cáo Nguyễn Quyết T mượn đi tiêu thụ tài sản trộm cắp, nay đã bán cho người khác, nên không đề cập xử lý. Số ma túy thu của Nguyễn Quyết T qua giám định, cơ quan giám định hoàn lại cùng gói giấy đã niêm phong cần tịch thu tiêu hủy.
Trong vụ án này, đối với anh Lê Tuấn P1, bà Nguyễn Thị L1, chị Đào Thị M1 cho hành vi mua tài sản của Hồ Tuấn N trộm cắp được mà có, bà Đỗ Thị B1 nuôi gà hộ chị M1; nhưng đều không biết là tài sản do phạm tội mà có; còn anh Nguyễn Hoài D1 cho Nguyễn Quyết T mượn xe mô tô và không biết T sử dụng chở đồ trộm cắp nên không đề cập xử lý. Người bán ma túy cho T tại khu vực chợ Núi Xẻ thuộc Tổ 56Khu 6, phường C, thành phố H, Quảng Ninh do T khai ra, quá trình điều tra không xác định được nên không có cơ sở để xử lý.
Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
1. Tuyên bố:
QUYẾT ĐỊNH
Bị cáo Hồ Tuấn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo Nguyễn Quyết T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chấtma túy”
- Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999;
Xử phạt bị cáo Hồ Tuấn N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (08/10/2017);
- Áp dụng khoản 1 Điều 138, khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốchội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quyết T 06 (sáu)) tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản, 24 (hai bốn) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tổng hợp hình phạt của cả haitội, buộc bị cáo T phải chịu mức hình phạt chung của cả hai tội là 30 (ba mươi) thángtù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (16/9/2017);
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự; buộc bị cáo Hồ Tuấn N và bị cáo Nguyễn Quyết T phải liên đới bồi thường cho anh Lê Tuấn P1 700.000 đồng (mỗi bị cáo bồi thường 350.000 đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án chậm thực hiện N vụ bồi thường thi hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
- Tịch thu tiêu hủy 0,15g (không phẩy mười lăm gram) ma túy là vật chứng của vụ án (đã hoàn lại sau giám định).
Toàn bộ vật chứng đã được Công an thành phố H bàn giao sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố H theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 61/BB-THA ngày 18/12/2017.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Hồ Tuấn N và bị cáo Nguyễn Quyết T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Hồ Tuấn N, Nguyễn Quyết T, mỗi bị cáo phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm báo cho các bị cáo có mặt, người bị hại có mặt biết quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng những người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.
Bản án 274/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 274/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về