TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 273/2019/DS-PT NGÀY 16/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỤI
Ngày 16 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 242/2019/TLPT-DS ngày 19 tháng 9 năm 2019 về việc tranh chấp hụi.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 95/2019/DS-ST ngày 12/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 229/2019/QĐ-PT ngày 30 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hứa Thị D, sinh năm 1978 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp 5, xã K, huyện T, tỉnh C ..
- Bị đơn:
1. Bà Lý Thị Hồng T, sinh năm 1980 (Có mặt).
2. Ông Huỳnh Minh V, sinh năm 1978 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp 5, xã K, huyện T, tỉnh C ..
- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Minh V, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Bà Hứa Thị D trình bày:
Ngày 10/8/2017 âl, bà D mở 01 dây hụi do bà D làm chủ loại 500.000 đồng, 01 tháng khui 02 lần, bà T và ông V tham gia 01 phần. Đến kỳ khui hụi lần thứ 5, bà T và ông V hốt hụi. Dây hụi đã mãn ngày 30/4/2019 âl, nhưng bà T và ông V còn nợ lại tiền hụi chết chưa đóng là 17 kỳ bằng số tiền 8.500.000 đồng, sau đó có trả được số tiền 200.000 đồng, còn nợ lại số tiền 8.300.000 đồng đến nay chưa thanh toán. Do đó, bà D khởi kiện yêu cầu bà T và ông V trả lại cho bà số tiền 8.300.000 đồng.
- Bà Lý Thị Hồng T trình bày:
Bà T thừa nhận việc chơi hụi giữa bà với bà D và bà còn nợ bà D tiền hụi chết chưa đóng số tiền 8.300.000 đồng như bà D trình bày là đúng. Bà T đồng ý trả cho bà D số tiền còn nợ 8.300.000 đồng, nhưng bà T cho rằng ông V không có liên quan đến số tiền bà còn nợ bà D.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 95/2019/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hứa Thị D. Buộc bà Lý Thị Hồng T và ông Huỳnh Minh V phải hoàn trả lại cho bà D số tiền 8.300.000 đồng tiền nợ hụi.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27/8/2019, ông Huỳnh Minh V có đơn kháng yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm và xác định phần nợ số tiền 8.300.000 đồng của bà Hứa Thị D là nợ riêng của bà Lý Thị Hồng T, bà T có trách nhiệm thanh toán cho bà D, không liên quan đến ông V.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Huỳnh Minh V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh Minh V, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 95/2019/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Xét kháng cáo của ông Huỳnh Minh V, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Việc bà Lý Thị Hồng T có tham gia chơi hụi do bà Hứa Thị D làm chủ bà T tham gia một phần hụi, loại hụi 500.000 đồng. Sau khi hốt hụi, bà T đóng lại hụi chết cho bà D còn nợ 17 kỳ bằng số tiền 8.500.000 đồng; sau đó trả được số tiền 200.000 đồng, còn nợ lại số tiền 8.300.000 đồng là thực tế có xảy ra. Bà T đồng ý trả cho bà D số tiền còn nợ 8.300.000 đồng. Xét thấy, hiện nay dây hụi đã mãn, bà D đã thực hiện nghĩa vụ thay cho bà T với tư cách chủ hụi cho các hụi viên; do đó, bản án sơ thẩm buộc bà T trả lại cho bà D số tiền 8.300.000 đồng là phù hợp.
[2] Xét về nghĩa vụ trả nợ của ông V: Ông V cho rằng việc bà T chơi hụi ông không biết, nhưng ông V thừa nhận mục đích bà T chơi hụi là để có tiền sinh hoạt trong gia đình; ông V không đồng ý trả nợ cùng bà T là do bà T thiếu nợ nhiều người, nếu ông V đồng ý trả nợ cho bà D thì sau này các chủ nợ khác sẽ khởi kiện yêu cầu buộc ông V trả nợ cùng bà T. Hơn nữa, việc bà T chơi hụi và nợ tiền hụi của bà D phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của ông V và bà T, được xác định là nợ chung của vợ chồng, nên vợ chồng phải có nghĩa vụ trả nợ. Xét thấy án sơ thẩm buộc ông V có trách nhiệm cùng bà T trả cho bà D số tiền 8.300.000 đồng là có căn cứ.
[3] Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông V, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp.
[4] Do không chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh Minh V nên án phí dân sự phúc thẩm ông V phải chịu theo quy định.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh Minh V.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 95/2019/DS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
Tuyên xử:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hứa Thị D.
Buộc bà Lý Thị Hồng T và ông Huỳnh Minh V trả cho bà Hứa Thị D số tiền 8.300.000 đồng.
Kể từ ngày bà D có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền nêu trên, hàng tháng bà T và ông V còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lý Thị Hồng T và ông Huỳnh Minh V phải chịu số tiền 415.000 đồng. Bà Hứa Thị D không phải chịu; bà D đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0003182 ngày 27/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.
- Án phí dân sự phúc thẩm ông Huỳnh Minh V phải chịu số tiền 300.000 đồng. Ngày 04/9/2019 ông V đã dự nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002631 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được đối trừ, chuyển thu án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 273/2019/DS-PT ngày 16/10/2019 về tranh chấp hụi
Số hiệu: | 273/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về