TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 27/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 32/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Giàng A P, tên gọi khác: không, sinh năm: 1991; nơi ĐKHKTT: bản K, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: không; con ông: Giàng Lịa D và bà: Thào Thị X, có vợ là Vừ Thị B và 04 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Minh H - Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La, có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Vừ Thị B, sinh năm: 1993, nơi ĐKNKTT: Bản K, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La, có mặt.
2. Ông Vừ A P, sinh năm: 1963, nơi ĐKNKTT: Cụm N, bản Ph, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La, vắng mặt.
3. Chị Sùng Thị U, sinh năm: 1988, nơi ĐKNKTT: Bản K, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 05 giờ 30 phút ngày 07/7/2017, tại khu vực bản C, xã L, huyện S, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện S phối hợp với Đồn biên phòng L phát hiện và bắt quả tang Giàng A P, trú tại: xã M, huyện S, tỉnh Sơn La đang vận chuyển trái phép 04 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (P khai là Hêrôin) cùng 01 xe máy, 01 điện thoại, 1.500.000đ và một số giấy tờ khác có liên quan.
Cơ quan điều tra Công an huyện S đã xác định trọng lượng 04 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng thu giữ của Giàng A P có trọng lượng 1.393,44 gam; kết quả giám định là loại chất Hêrôin.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Giàng A P khai nhận:
Khoảng 17 giờ ngày 06/7/2017, có một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đến nhà Giàng A P tự giới thiệu tên là V nhà ở xã L, huyện S, tỉnh Sơn La thuê P chở V vào xã L, S sẽ trả công cho P 200.000đ, P nhận lời và mượn xe máy của chị dâu là Sùng Thị U chở V đi. Trên đường đi, V đặt vấn đề thuê P vận chuyển ma túy từ xã L ra khu vực cổng chào huyện S, V sẽ trả công cho P 1.500.000đ, P đồng ý. Khi đến đầu bản L thì V bảo P dừng xe ở đầu bản đợi V, còn V đi bộ vào trong bản lấy ma túy. Khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày thì V quay ra cầm theo bao tải màu vàng đưa cho P và bảo bên trong có chứa ma túy. Sau đó, V đưa cho P 1.500.000đ và bảo P vận chuyển ma túy ra khu vực cổng chào huyện S sẽ có người nhận, rồi V đi đâu P không biết. P cầm bao tải có chứa ma túy để lên giá xe phía trước và điều khiển xe ra ngoài xã S. Khi đi đến bản C, xã L, huyện S, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trong vụ án: Giàng A P khai là của người đàn ông dân tộc Mông tên V, khoảng 30 tuổi nhà ở khu vực xã L, huyện S, tỉnh Sơn La thuê vận chuyển. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh ở địa chỉ trên nhưng không có đối tượng nào tên V có đặc điểm như bị cáo khai nhận. Ngoài lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không có căn cứ khác để xác minh, điều tra mở rộng vụ án.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 1111/VKS-P1 ngày 28/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Giàng A P về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, theo điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Giàng A P tù Chung thân.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của Luật sư Trần Minh H bào chữa cho bị cáo: nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La về tội danh, điều luật áp dụng. Bị cáo có nhân thân tốt, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa và do hoàn cảnh khó khăn và bị rủ rê, lôi kéo nên dẫn đến hành vi phạm tội; sau khi bị bắt bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo Giàng A P nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vừ Thị B có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử trả lại số giấy tờ cá nhân đã thu giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện S, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Giàng A P là người có nhận thức, biết được chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý vận chuyển trái phép 1.393,44 gam loại chất Hêrôin với mục đích để nhận tiền công, trên đường vận chuyển ma túy thì bị phát hiện và bắt quả tang.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ như sau:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 06 giờ 00 phút ngày 07/7/2017 tại khu vực bản Co Hốc, xã L, huyện S, tỉnh Sơn La đối với Giàng A P cùng vật chứng đã thu giữ 04 túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng có trọng lượng 1.393,44 gam. Tại bản kết luận giám định số 720/KLMT ngày 11/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy, loại chất Hêrôin, tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ 1.393,44 gam, loại chất Hêrôin.
- Lời khai nhận tội của bị cáo.
- Lời khai của người làm chứng Vì Văn C, trú tại: Bản P, xã L, huyện S, tỉnh Sơn La có mặt chứng kiến việc Tổ công tác bắt quả tang Giàng A P khi đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy.
Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận Giàng A P phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự.
[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Giàng A P có hành vi vận chuyển trái phép 1.393,44 gam loại chất Hêrôin nhằm mục đích nhận 1.500.000đ tiền công, hành vi của bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Hêrôin hoặc Côcain có trọng lượng từ 100 gam trở lên” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, là hành vi tiếp tay cho tội phạm, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn và tội phạm khác. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội nhằm cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét: Bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự; sau khi bị bắt đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Mặc dù, bị cáo thực hiện hành phạm tội với số lượng ma túy đặc biệt lớn nhưng hành vi đã được phát hiện ngăn chặn kịp thời và bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cần mở lượng khoan hồng giảm nhẹ hình phạt với mức hình phạt tù không thời hạn cũng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, răn đe và phòng ngừa chung. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La và Luật sư tại phiên tòa.
[5] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự, song xét thấy bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Vật chứng vụ án:
- Đối với 1.382,15 gam loại chất Hêrôin còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, xét đây là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 bao tải màu vàng, 01 bộ áo mưa, 01 giấy báo bên trong có 01 cuộn giấy nến màu vàng và 04 gói nilon.
- Đối với 1.500.000đ thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Giàng A P, quá trình điều tra xác định được đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với số tiền 01 chiếc điện thoại di động, quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Đối với 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A P; 01 giấy phép lái xe và 01 chứng minh nhân dân mang tên Vừ Thị B, 01 đăng ký mô tô, xe máy và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm mang tên Vừ A P; thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là giấy tờ tùy thân của bị cáo, chị Vừ Thị B và ông Vừ A Páo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại.
- Đối với 01 chiếc xe máy BKS 26B1-860.34, nhãn hiệu Honda, loại Wave S màu sơn đỏ, đen cùng 01 giấy đăng ký xe máy, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy mang tên Sùng Thị U là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định được tài sản và giấy tờ trên là của chị Sùng Thị U, sinh năm 1988, trú tại: Bản K, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La, việc bị cáo P sử dụng xe để vận chuyển trái phép chất ma túy chị U không biết, không liên quan. Ngày 13/9/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã có quyết định trả lại tài sản trên cho chị Sùng Thị U là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Giàng A P phạm tội: Vận chuyển trái phép chất ma túy.
1/ Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Giàng A P tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2017.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2/ Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 1.382,15 gam loại chất Hêrôin cùng 01 bao tải màu vàng, 01 bộ áo mưa màu xanh đen, 01 gói giấy báo bên trong chứa 01 cuộn giấy nến màu vàng bà 04 gói nilon màu trắng được niêm phong trong 01 hộp giấy trắng được dán kín.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: số tiền 1.500.000đ thu giữ của bị cáo Giàng A P.
- Trả cho chị Vừ Thị B: 01 giấy phép lái xe mang tên Vừ Thị B, có số AX 240076 do Sở giao thông vận tải tỉnh Sơn La cấp ngày 24/9/2012 và 01 CMND mang tên Vừ Thị B, có số 050943279 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 16/01/2012.
- Trả cho ông Vừ A P: 01 đăng ký mô tô, xe máy mang tên Vừ A Páo, BKS 26C1-027.09 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 05/8/2014 và 01 tờ giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện mô tô, xe máy mang tên Vừ A P.
- Trả cho bị cáo Giàng A P: 01 CMND mang tên Giàng A P, có số 050911573 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 09/02/2011 và 01 giấy phép lái xe mang tên Giàng A P, có số AT824228 do Sở Giao thông tỉnh Sơn La cấp ngày 21/11/2011.
- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu đen, bạc IMEI có 04 số cuối 237/8 kèm 01 sim trong máy thu của bị cáo Giàng A P.
- Chấp nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã trả 01 chiếc xe mô tô hai bánh có BKS 26B1-860.34, nhãn hiệu Honda, loại Wave S màu sơn đỏ, đen cùng 01 giấy đăng ký xe máy, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy mang tên Sùng Thị U cho chị Sùng Thị U, sinh năm 1988, trú tại: Bản K, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La.
3/ Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: bị cáo Giàng A P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết./.
Bản án 27/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 27/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về